Thông tin cơ bản
Cuộc đời và sự nghiệp
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491) còn có tên là Văn Đạt, tên chữ là Hanh Phú, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Ông sinh ra trong một gia đình nho học nhưng không quyền thế, chỉ có ông ngoại Nhữ Văn Lan làm đến chức Thượng thư bộ Hộ. Thân phụ ông là Thái Bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định, thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan. Từ nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm mặt mũi khôi ngô tuấn tú, tư chất thông minh hơn người, lên năm tuổi được mẹ dạy cho kinh sách, truyền miệng cho thơ văn chữ Nôm. Ông học đâu nhớ đấy, không quên chữ nào. Lớn lên, ông theo học cụ Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông sáng dạ, thông minh lại học hành chăm chỉ nên được thầy rất khen ngợi. Nhưng mãi đến năm 1534, khi ông 43 tuổi mới đi thi và đỗ ngay Giải Nguyên. Năm sau đi thi Hội lại đỗ Hội nguyên, đi thi Đình, đỗ ngay Trạng nguyên.
Nguyễn Binh Khiêm sinh vào thời Lê Thánh Tông (Hồng Đức thứ 21). Đến năm 1505, Lê Uy Mục nối ngôi “Vua thích uống rượu, ham giết người, hiếu sắc, giết hại tôn thất, giết cả tổ mẫu, họ ngoại chuyên quyền, trăm họ oán giận. Người đời gọi là vua quỷ, điểm loạn hiện ra từ đấy” (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tr.41). Năm đó Nguyễn Bỉnh Khiêm 15 tuổi. Lê Tương Dực lên ngôi năm 1509, khi Nguyễn Bỉnh Khiêm 19 tuổi, vua “ham chơi mà không quyết đoán, việc thổ mộc bừa bãi, nhân dân thất nghiệp, trộm cướp nổi dậy, nguy vong là bởi ở đấy” (Ngô Sĩ Liên). Vua cho thầy học Nguyễn Bỉnh Khiêm là Bảng nhãn Lương Đắc Bằng làm Lại bộ Tả thị lang.
Năm Nguyễn Bỉnh Khiêm 37 tuổi, Mạc Đăng Dung xưng ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Minh Đức, lấy Hải Dương làm Dương kinh, truy tôn tổ 7 đời là Mạc Đĩnh Chi làm “Kiến thủy khâm minh Văn hoàng đế”. Vua Mạc đúc tiền mới bằng kẽm để ban bố cho các xứ tiêu dùng, sai sứ sang Yên Kinh dâng biểu xin thần phục cống nạp nhà Minh. Đến năm 1529, nhà Mạc mở khoa thi Hội, lấy được 26 Tiến Sĩ. Sau 3 năm giành được ngôi vua, Mạc Đăng Dung tự thấy mình tuổi già, bèn truyền ngôi cho con trưởng là Đăng Doanh, tự xưng là Thái Thượng hoàng, bấy giờ Mạc Đăng Dung mới 47 tuổi. Đăng
Doanh lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Đại Chính thứ nhất. Đến năm 1535, triều đình mở khoa thi Hội, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Khắc Đốc, Nguyễn Thừa Hưu đỗ Tiến sĩ cập đệ, có 7 Tiến sĩ xuất thân và 22 đồng tiến sĩ xuất thân. Trong thời Thái Tông nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm có làm hai bài thơ Xuân thiên ngự tửu, đều dự hạng ưu, rồi ông được thăng chức Hữu thị lang Bộ hình, một thời gian ngắn sau lại thăng chức Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ
Trong 8 năm ở triều, ông có dâng sớ xin chém 18 tên lộng thần, bởi vì bản tâm ông chỉ muốn trăm họ đều được an vui nhưng rồi gặp phải con rể là Phạm Dao ỷ thế lộng hành, vì sợ liên lụy đến mình, ông cáo quan về trí sĩ.
Giữa năm Quảng Hòa thứ 2 (1542), Nguyễn Bỉnh Khiêm mới 52 tuổi đã treo mũ về làng, dựng am Bạch Vân và vẫn lấy danh hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Bấy giờ, ông có bắc hai chiếc cầu Nghinh Phong và Trường Xuân để hóng mát, dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân bên bến Tuyết Giang.Trong thời gian ẩn dật ở chốn gia hương tuy không tham dự triều chính nhưng nhà Mạc vẫn kính trọng ông như một bậc thầy, những việc trọng đại trong triều ngoài nội đều sai sứ giả về hỏi, lại có khi đón cả lên kinh thành, ông đều ung dung chỉ dẫn. Việc xong ông lại trở về am cũ, nhà Mạc có giữ cũng không được. Về sau ông được liệt vào hàng Đệ nhất công thần, phong tước là Trình Tuyền hầu, dần thăng đến chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó Trình quốc công, ông bà hai đời cũng được phong ấm, ba người thê thiếp và bảy người con cũng theo thứ tự được phong hàm
.Vào năm Diên Thành thứ 8 đời Mạc Mậu Hợp (1585), tức năm Ất Dậu, tháng 11 thì ông lâm bệnh. Mạc Mậu Hợp sai sứ đến vấn an và hỏi về quốc sự. Ông chỉ trả lời rằng: “Tha nhật quốc hữu sự cố, Cao Bằng tuy tiểu khả duyên sổ thể” nghĩa là “Sau này quốc gia hữu sự thì đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng cũng thêm được mấy đời”. Cách 7 năm sau thì nhà Mạc mất, các chúa nhà Mạc như Cần Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh Xương rút lui lên giữ Cao Bằng được 70 năm nữa.
Giữa ngày 28 tháng 11 năm ấy thì ông tạ thế (năm Diên thành thứ 8 đời Mạc Mậu Hợp) hưởng thọ 95 tuổi. Học trò suy tôn ông là Tuyết Giang phu tử, phần mộ ở trên một gò đất trong làng.
Triết lý nhân sinh sâu sắc trong con người của ông
Trung tâm của quan niệm triết lý Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là quan niệm “nhàn”. Ông cho rằng“để đáp ứng được lẽ biến dịch của tạo hóa thì con người phải sống theo lẽ tự nhiên, đó là vui với đạo trời, biết số mệnh và ung dung tự tại”. Triết lý nhàn, tiên, vô sự được thể hiện sâu sắc trong thơ ông. Nhàn là cuộc sống hòa đồng với người dân nơi thôn dã và thiên nhiên. Nhàn là khép cửa ải lợi danh ồn ào, phiền não lại. Nhàn cũng là lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chữ “nhàn” trở thành một ám ảnh nghệ thuật, bởi nó không chỉ bộc lộ những tâm trạng riêng của ông, gắn liền với thời cuộc, mà còn thể hiện một quan niệm triết học của ông, một cách ứng xử của ông trước cuộc đời. Nhà thơ đã nhiều lần bộc lộ những suy ngẫm gắn kết với đạo lý của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thời cuộc đảo điên. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong quy luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy: “Thấy dặm thanh vân bước ngại chen/ Được nhàn ta xá dưỡng thân nhàn”(Thơ Nôm, bài 8). Trong quan niệm của ông, “nhàn” là giữ cho mình trong sạch, cũng là cách bảo vệ khí tiết của nhà nho và phẩm giá của con người. Từ khái niệm triết học trung tâm “nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy được triết lý vô thường của nhân sinh, vũ trụ: “Lần nữa ngày qua tháng qua/ Một phen xuân tới một phen già/ Ưu ái vằng vặc, trăng in nước/ Danh lợi lâng lâng: gió thoảng qua”. Ngày tháng trôi nhanh như nước chảy qua cầu, thế nên tất cả mọi mưu cầu danh lợi, ưu tư phiền não xưa nay đều không có thực, chỉ là ảo ảnh như bóng trăng in dưới dòng nước, cho nên lòng thi nhân thấy lâng lâng, nhẹ nhõm, trút sạch mọi vinh nhục, danh lợi, thịnh suy…Đó là thái độ an nhiên tự tại trước lẽ vô thường, sinh diệt biến đổi của vũ trụ.
Sống ở am Bạch Vân, ông có thời gian ngẫm nghĩ về thế sự, nhân tình và phát hiện ra những quy luật vận động bên trong của cuộc sống. Vận dụng vốn hiểu biết về âm dương, ngũ hành, bát quái, ông nhận thấy trong vũ trụ rộng lớn có sự tồn tại và hài hòa giữa âm và dương, từ đó phát hiện ra quy luật “tuần hoàn đắp đổi nhau vốn lẽ thường” (Trung tân quán ngụ hứng). Chính vì thế ông nghiệm sinh lẽ đời với con mắt một triết nhân: “Vinh nhục một cơ hằng đắp đổi/ Ắt là từng thấy một hai phen” (Thơ Nôm, bài 39) hay: “Thế sự tuần hoàn đắp đổi/ Từng xem thua được một hai phen” (Thơ Nôm, bài 44). Thi nhân nhận thấy sự tuần hoàn của cuộc đời là lẽ thường nên thái độ của con người thường là lặng lẽ ngắm nhìn cuộc đời tuần hoàn, xoay chuyển.
Vinh nhục, được thua của cuộc đời là lẽ thường nên vị trí của thi nhân thường là đứng trên hoàn cảnh, nghịch cảnh, đứng trên mọi cái xấu xa của xã hội để suy nghiệm về nó, phát hiện ra các quy luật bên trong của nó: “Thế gian biến đổi vũng nên đồi/ Mặn lạt chua cay lẫn ngọt bùi/ Còn bạc còn tiền còn đệ tử/ Hết cơm hết rượu hết ông tôi” (Thơ Nôm, bài 71). Vì lẽ đời là thế nên nhà thơ khuyên chúng ta: “Chưa dễ ai là bậc Thích Ca/ Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì qua/ Lòng vô sự: trăng in nước/ Của thảng lai: gió thổi qua”.Khi lòng người bình an vô sự thì những “lao xao”, hệ lụy của cuộc đời cũng chỉ là gió thoảng mây bay, không đáng để ý. Thanh nhàn, ấy chính là cõi tiên của đời người.
Nguồn tham khảo
- ThS. Nguyễn Quang Minh, ThS. Mai Thị Huệ, Cảm thức thiền trong thơ nguyễn bỉnh khiêm và matsuo basho, Tạp chí khoa học – đại học đồng nai, số 03 – 2016
- Phạm Thị Hà Châu, Tình hình văn bản thơ nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội.