Chủ Nhật, Tháng 2 23, 2025
HomeĐạo Mẫu Tứ PhủTứ phủ Thánh mẫuMẫu Đệ Nhị Địa Tiên - Mẫu Thượng Thiên - Mẫu Liễu...

Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên – Mẫu Thượng Thiên – Mẫu Liễu Hạnh

Liễu Hạnh Công Chúa là một trong những vị Nữ Thần quan trọng của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ngài còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh, hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ, bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.

Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị Thánh Tứ Bất Tử cùng với Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương và Chử Đồng Tử.

Ba vị thánh đầu tiên đều xuất hiện vào thời vua Hùng trong vương triều Văn Lang, riêng Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1434, vào thời vua Lê Thái Tông vị hoàng đế thứ 2 của triều Lê nước Đại Việt, trị vì năm 1433 – 1442.

Thánh Mẫu Liễu Hạnh tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ. Mẫu là vị Thánh linh thiêng do kết nối được các quyền lực: Quyền lực Phật giáo: Mẫu quy y cửa Phật, trở thành Mã Vàng Bồ Tát; Quyền lực Đạo giáo: Mẫu được cho là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế; Quyền lực Vương triều: Mẫu được các triều đại phong kiến từ thời Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều sắc, tôn phong là “Mẫu Nghi Thiên Hạ – Mẹ của muôn dân”, ”Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương”,…

Thần tích Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Theo tư liệu lịch sử

Theo văn bia Phủ Nấp của cụ giáo Du

Trong bản chép văn bia Phủ Nấp của cụ giáo Du (người thôn Vọng, xã Đại Đồng, huyện Ý Yên), có một bia với tiêu đề Quảng Cung Linh Từ bi ký. Văn bia này do ông Nguyễn Đình Việp (lúc đó là Tri huyện Đại An) soạn năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), nói về ba lần giáng sinh của Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh như sau:

Lần giáng sinh thứ nhất, tiền thân của Phạm công ở xã Trần Xá (Tràn) ở Đại An là phó sứ có tội. Thượng đế xét lòng thành cầu khấn của ông bà Phạm công, mới cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên giáng sinh vào nhà ấy vào giờ Dần ngày 06 tháng 03 niên hiệu Thiệu Bình năm đầu (1434), đặt tên huý là Tiên Nga, lớn lên tài sắc kiêm toàn, phụng dưỡng cha mẹ trọn đạo. Ngày 02 tháng 03 năm Quý Tỵ (1473) niên hiệu Hồng Đức thì hoá về trời đang tuổi 40. Dân sở tại nhớ ơn cứu bệnh giúp người nghèo, bèn lập đền thờ khói nhang tưởng mộ.

Lần giáng sinh thứ hai, ngài giáng tại thôn Vân Cát xã Yên Thái, vào nhà họ Lê có tên là Thị Thắng, lấy chồng người trong xã là Trần Duy Đào, sinh được một trai tên là Duy Nhâm. Kể từ ngày Giáp Dần tháng Giáp Thìn niên hiệu Thiên Hựu năm đầu (1557), đến ngày 3 tháng 3 niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577), vừa tuổi 21, thì mất.

Lần giáng sinh thứ ba, ngài giáng xuống xã Tây Mỗ huyện Nga Sơn vào giờ Dần ngày 10 tháng 10 năm Khánh Đức thứ 2 (1650) tái hợp với Đào Lang sinh được một trai là Cổn, đến ngày 5 tháng 2 năm Cảnh Trị thứ 6 (1668), trải qua 19 năm mới trở về Đế sở. Từ đó, Mẫu tuỳ nghi du ngoạn hoặc Đông Đô hoặc Lạng Sơn, ra oai cùng sỹ tử, tác phúc với lương dân,…

Theo Quảng Cung Linh Từ phả chí

Tư liệu tiếp theo là Quảng Cung Linh Từ phả chí viết năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781) của Vũ Huy Trác (người Lộng Điền, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Cảnh Hưng 33 – 1772, trải các chức Lễ Bộ Tả Thị Lang, Quốc Tử Giám tư nghiệp, kiêm khu mật viện sự). Tư liệu này chép chi tiết hơn, như sau:

Lần giáng sinh thứ nhất: Nước ta vào thời Trần, ở huyện Đông Sơn có quan phó sứ Thiên Trường tên là Phạm Như Tiền, do bất cẩn trong việc quan bị tội, đày xuống hạ giới vào nhà họ Phạm ở Đông Ba huyện Đại An, làm con thứ, có tên là Đức Chính. Do Phạm công là con thứ, nên xin với cha xuống phường Trần Xá trong huyện, buôn bán tre gỗ,… rồi lấy người xóm Nhuế Duệ là Đoàn Thị Phương, hai người ở với nhau lâu chưa có con, bèn đến cầu tự ở chùa Phúc Lâm, sau sinh ra một cô gái xinh đẹp. Lúc ấy, đang giờ Dần ngày 06 tháng 03 năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), đặt tên là Tiên Nga. Lớn lên chăm chỉ học tập, thông minh khác người, nhưng không lấy chồng. Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), thân phụ mất, an táng tại cồn đất phía đông nam phủ lị. Qua hai năm, thân mẫu cũng qua đời, đang ngày 20 tháng chạp năm Giáp Thân (1464), táng tại phía trái mộ thân phụ. Năm 35 tuổi, cải táng mộ song thân trọn vẹn, rồi chu du trong hạt giúp dân. Ngài đã có công: đắp đê Đại Hà trên từ bên phải núi Tiên Sơn dưới đến trại Tịch Nhi (xóm Gon); làm 15 cây cầu đá; khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu khẩn đất ven sông; giúp người bần bệnh tiền bạc; sửa chùa đền; cấp lương tiền cho các vị hương sư, khuyên họ chăm việc dạy dỗ con em học tập. Sửa chùa Sơn Trương (Ý Yên), chùa Long Sơn (Duy Tiên), chùa Thiện Thành (Đồn Xá, Bình Lục), rồi ở tại Đồn Xá chiêu dân tái lập làng xã đến tháng giêng năm Nhâm Thìn (1472); Tháng 09 cùng năm trở về nơi ở cũ gặp thân thích cố cựu sửa đền thờ tổ ở phía nam thôn Đồi hạ. Bà còn viết nhiều thơ ca, chẳng hạn bài có tiêu đề “Nhàn cư bách thủ”,… Tháng Giêng năm Quý Tỵ lại đi đến các nơi ngày xưa từng tới, tháng ba về nhà ở, mơ thấy Phùng vương báo cho đến hạn về Đế hương. Khi ấy là ngày 02 tháng 03 năm Quý Tỵ (1473) thọ 40 tuổi. Sở tại đổi nơi ở cũ thành Đền thờ tự tri ân.

Lần giáng sinh thứ hai, giáng xuống đất xã An Thái huyện Thiên Bản, vào ngày 02 tháng 03 năm Thiên Hựu thứ nhất (1557) tại nhà họ Lê, tên là Thị Thắng sinh được một trai là Nhâm và một gái là Hoà. Đang lúc 21 tuổi, ngày 03 tháng 03 năm Gia Thái thứ 5 (1577), hết hạn cho phép, trở về linh tiêu, để lại con cho chồng là Trần Duy Đào. Có mộ để ở phần đất phía Nam xã nhà, cây cỏ bao phủ xanh tốt, bốn mùa khói nhang nghi ngút, linh dị khác thường.

Lần giáng sinh thứ ba, xuống thẳng đất Tây Mỗ huyện Nga Sơn, có tên là Hoàng Thị Trinh, lấy chồng là Mai Thanh Lâm, sinh được một trai đặt tên là Thanh Cổn. Kể từ ngày 10 tháng 10 năm Khánh Đức thứ 2 (1650), đến ngày 5 tháng 2 năm Cảnh Trị thứ 6 (1668), được 19 năm, thì trở về chốn Đế hương. Sau Chúa giáng bút đền ở Tây Mỗ, nói chồng mất ngày 23 tháng chạp, bà kế của chồng mất 14 tháng 08. Từ đó về sau, Chúa du ngoạn tuỳ nghi, ra oai giáng phúc chống lại triều Lê, cự lại cùng thiên sứ, xướng hoạ văn thơ với các văn nhân đương thời. Tiên Chúa đến nơi nào thì thường khuyên dân nơi đó chăm chỉ làm ăn, như Yên Mô thì trồng dâu nuôi tằm; Chúa có dạy học ở Thiên Quan, khẩn đất ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Nghệ An,… Khi Chúa đi rồi dân nhớ ơn lập đền thờ, tạc bia đá, viết từ phả,… Các đời vua đều ban sắc tặng. Ở đền Quảng Cung có 23 đạo sắc, đạo sắc sớm nhất có niên hiệu Hoằng Đình năm đầu (1601). Người ở An Thái và Tây Mỗ đem lễ đến kính tế từ năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), đến nay (thời điểm 1781) đã được 15 lần. Đền Quảng Cung xưa có lệ quốc tế, từ niên hiệu Cảnh Hưng năm đầu (1740) trở đi, thì mỗi khi đến ngày kỵ, quan phủ Nghĩa Hưng vâng mệnh bề trên đến lễ.

Theo Ngọc Phả (Lần giáng sinh thứ hai)

Chép theo ngọc phả thời tiểu sử Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy thực là giản dị không có chút gì là huyền bí cả. Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy giáng sinh đêm trăng rằm tháng 8 năm 1557 (năm Đinh Tỵ – Lê Thiên Hựu đệ nhất tức đời vua Lê Anh Tông) tháng Thìn, ngày Dần, giờ Dần. Năm 1577 (năm Đinh Sửu) không bệnh mà mất.

Thân phụ Ngài là Lê Công Chính và thân mẫu Ngài là Trần Thị Phúc.

Cao cao Tổ thuộc dòng dõi họ Lê ở trong Thanh Hóa, ở ẩn ra ngoài làng Kẻ Dầy, đổi sang họ Trần, tới đời thứ 3 thì lại đổi về họ Lê (Lê Công – Lê Đức Chính). Sau này con cháu mang dòng họ Trần Lê.

Lê Công đặt tên Ngài là Lê Thị Thắng, tên riêng của Ngài là Giáng Tiên vì ngài đẹp như tiên giáng trần.

Lê Công là một nhà nho, phong lưu, sung túc, người ở xã Tiên Hương, có đủ vật lực cho con gái theo đòi bút nghiêng , thi thư kinh sử, may vá thêu thùa. Nàng Giáng Tiên hồi bấy giờ thật là một người con gái hoàn hảo, có nhan sắc thông minh, nết na, lại tài giỏi về nữ công, âm nhạc, thi phú.

Những lúc nhàn rỗi, Giáng Tiên thường dạo chơi ra vườn gẩy đàn ngâm thơ. Hiện vườn ấy hãy còn di tích, lại đăng sau đền thờ Mẫu ở xã Tiên Hương bây giờ. Các bài thơ của nàng Giáng Tiên soạn còn truyền lại được bốn bài vịnh xuân, hạ, thu đông.

Năm 19 tuổi thì Giáng Tiên xuất giá kết hôn cùng với Trần Đào Lang. Đào Lang là con nuôi một ông quan hưu trí họ Trần ở thôn Vân Đình cũng thuộc xã Tiên Hương. Tục truyền rằng ông quan họ Trần ấy đã nhiều tuổi mà không có con, một hôm ra dạo mát vườn hoa tìm được một cậu bé, ai đem bỏ ở gốc cây đào, bèn đem về nuôi và đặt tên là Đào Lang.

Nàng Giáng Tiên về nhà chồng, trên thuận dưới hòa, nức tiếng là người hiền phụ. Đước một năm sinh hạ được một giai đặt tên là Lê Nhâm, năm sau nữa lại sinh thêm được một gái tên Lê Cổn.

Sau khi lấy vợ, Đào Lang tỏ vẻ hơi trễ nải việc học hành. Nhân lúc canh khuya dệt vải, nàng Giáng Tiên làm một vài thơ có 28 vị tinh tú để răn đức lang quân. Đào Lang cũng họa một bài có 28 vị sao, và sau khi ấy trở nên rất chăm chỉ.

Giữa lúc gia đình đang sống trong cảnh yên vui, đầm ấm, trên có cha mẹ già, dưới có hai con thơ, vui vầy sum họp thì thương ôi nàng Giáng Tiên tự nhiên vô bệnh mà mất. Nàng mất năm 1577 (năm Đinh Sửu), giờ Dần ngày mùng 3 tháng 3, khi ấy mới vừa 21 tuổi, mộ táng ở xứ Cây Đa xã Tiên Hương, hiện nay lăng của ngài vẫn còn ở đấy. Năm 1938, người trong họ Đào chi và những người tín ngưỡng Đức Thánh Mẫu ở trong Trung Kỳ đã hưng công đóng góp xây dựng thành một ngôi lăng mộ Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy nguy nga tráng lệ.

(Nội dung bài viết chép theo cuốn Hội Phủ Dầy – Sự tích Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh Công Chúa – Tác giả Phạm Quang Phúc (tri huyện Vụ Bản biên tập năm 1942) – Nhà xuất bản Thế Giới ấn bản năm 2021)

Cung cấm thờ Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy tại Phủ Chính – Phủ Dầy Nam Định

Về việc thờ tự Mẫu ở khu vực đền Tiên Hương, theo ông Trần Lê Nhuận xóm 1 Tiên Hương xã Kim Thái huyện Vụ Bản:

  • Cụ tổ Lê Công Tiên giỗ 18 tháng 4,
  • Bà Từ Huệ giỗ 8 tháng 4,
  • Ông Phúc Lương giỗ 9 tháng 9,
  • Bà Từ Đường giỗ 17 tháng 2,
  • Ông Đức Chính giỗ 9 tháng 9,
  • Bà Diệu Phúc giỗ 15 tháng 12,
  • Ông Duy Đào giỗ 5 tháng 5,
  • Bà Thị Thắng giỗ 3 tháng 3,
  • Ông em, tên là Lâm, giỗ 24 tháng 12,
  • Bà Sâm, tên tự là Duy Tiên, giỗ 9 tháng 3,
  • Bà Liên, tên tự Quế Anh, giỗ 15 tháng 3,
  • Ông Từ Huyền giỗ 5 tháng 3,
  • Bà Vĩnh giỗ 25 tháng 2.

Có thể thấy liệt kê trên đây là ngày giỗ của vợ chồng Mẫu (Thị Thắng và Duy Đào), và của thân thích trước sau.

Hiện ở Phủ Chính, có bài vị mang dòng chữ: “Sắc tặng khải sinh thánh phụ Trần công huý Chính, dực bảo trung hưng trung đẳng thần” và “Sắc tặng khải sinh thánh mẫu Trần môn chính thất huý Phúc, dực bảo trung hưng trung đẳng thần”, “Sắc tặng phu quân Trần công huý Duy Đào, trung đẳng thần”, “Sắc tặng Trần công huý Nhâm, trung đẳng thần” .

Như vậy, trong quan hệ với Mẫu, ông Lê Công Tiên là bố đẻ và bà Từ Huệ (Trần Thị Phúc) là mẹ đẻ, ông Lê Công Lâm là em ruột, bà Sâm tức Duy Tiên phu nhân là em dâu, bà Liên tức Quế Anh hay Quế Hoa là cháu.

Về phía chồng, ở xóm Vân Đình (Giáp Nhì), đều có bài vị thờ ở Phủ Tiên Hương. Mộ phát tích thì tại xứ Cây Đa Bóng, có mộ cha đẻ tại xứ La Hào (Giáp Ba) là mộ tổ tứ đại, còn cồn cây đa là mộ Mẫu nơi chôn cất xác phàm, nơi sau này ba chị em họ Lê thuộc Hội Đào chi (Huế) đã xây thành lăng đá năm Bảo Đại Mậu Dần (1938).

Theo các bản văn khấn tế

Bài văn tế dùng để tế Thánh Mẫu tại Phủ Tiên Hương do Hà Tông Quyền (Lễ bộ Hữu Thị Lang, Phương Trạch hầu) viết năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), tạm dịch nghĩa:

“Kính trông Thánh Mẫu,

Phong độ người tiên, giá trong băng ngọc,

Hẹn năm trăm tốt đẹp, do Côi Hoàng anh tú sinh ra,

Nổi danh Thiên Bản lục kỳ, tới Sòng Cát thiêng liêng rõ rệt,

Có nguồn gốc tự Quảng Cung, thực là thần hoá,

Vọng tiếng tăm trong thiên hạ, chỉ bởi hiếu trinh,

Rồi đến Vân Cát, khuôn mẫu mẹ bao trùm hải nội,

Luôn vì phu tử, lòng nhân từ nhuận thấm sơn hương,

Buổi Tây Mỗ, đoạt thân Hoàng thị tái hợp Đào quân,

Ngụ Kẻ Sỏi dạy con học hành, cho tròn phụ đạo,

Với nhà, sùng phụng Mẫu nghi, ngàn thủa cung đình rực rỡ,

Với nước, tôn phong Vương vị, các triều hoa cổn biểu dương,

Lũ dân con từ lâu kính thờ hương khói, đội đức sinh thành…

Ngẩng đầu trông đợi chở che, thanh cao tượng pháp,

Nhìn xuống xiết bao sợ hãi, rẽ rọt tâm linh…

Giấc mơ nghe nhạc quân thiên, gió đưa vận dao cầm phảng phất,

Lòng nghỉ ở ăn đất Thánh, sân phô bày gây hội nghiêm trang,

Nay nhân gặp tiết theo xưa, kiến sâu dãi tỏ,

Lại sắm vi thành tục cũ, lớn bé xếp hàng,

Mong cho bách tính quân an, dưới trên hoà thuận,

Chỉ nguyện tứ dân lạc nghiệp, đi lại hanh thông,

Thần soi xét từ sự cao minh, thâu cùng vật loại,

Đức quảng đại bao hàm non nước, vọng khắp cổ kim,

Thực trông ơn tế độ âm phù hết sức vậy.

Cẩn cốc !”

Trong lời khấn ở Phủ Tổ họ Trần ông Trần Bình Hành hậu duệ của Mẫu, có đoạn:

“Có tổ nội ở La Hào, mộ để tọa khôn hướng cấn,

Còn quê chồng nơi Nhị giáp, trạch an hướng tốn tọa càn.

Với cha hiếu thuận đâu người sánh,

Cùng chồng trinh bạch ít ai so.

Nối tiền kiếp giáng sinh ở chân trời,

Cửa nhà ấm áp, dạy hậu duệ phong hoá từ chóp núi,

Ngày tháng thanh đạm.”

Bài thơ của Lã Xuân Oai nói về Phủ Tiên Hương (bài dịch của Bùi Hạnh Cẩn):

“Ai biết đền xưa được tỏ tường,

Tâu bày với Mẫu nén tâm hương.

Trông ơn non Thái lời chung thuỷ,

Nhờ đức làng Tiên giữ kỷ cương.

Sao để Lạc Hồng không thẹn bóng,

Chỉ mong Tiên Chúa sớm lo lường.

Nổi danh đệ nhị còn gia tộc,

Nam bắc ngàn thu một chiếc gương.”

Hiện nay, còn thấy cuốn thư gỗ treo ở gian giữa tiền đường Phủ Chính có chữ đề của Tam Thanh Ngô Giáp Đậu (Nam Định đốc học, đậu năm Mậu Ngọ niên hiệu Khải Định – 1918):

Nhất đạo kim bài hạ cửu thiên,

Nam châu thần phả Cát sơn tiên.

Cổ truyền An Thái trung linh địa,

Do ký Dương Hoà hiển thánh niên.

Kinh tạng mặc thông tam muội quyết,

Từ quang phổ tác vạn gia yên.

Phong thanh cố quốc sùng vương mẫu,

Miếu mạo thiên thu hưởng tự quyền.

Tạm dịch:

Một thẻ vàng trao chốn cửu thiên,

Cõi nam Vân Cát một người Tiên.

Vẫn rằng Yên Thái nơi quê cũ,

Còn nhớ Dương Hoà nổi tiếng thiêng.

Tam muội làu thông kinh sách quý,

Muôn nhà nhờ cậy khói nhang tôn.

Phong thanh cố quốc nêu Vương Mẫu,

Đền miếu ngàn thu kính lễ truyền.

Bài thơ của Ngô Giáp Đậu nhắc lại tích truyện trong tiết vạn thọ của vua cha Ngọc Hoàng, tiên chúa đánh rơi chén ngọc, vỡ mất một góc. Vua cha giận, đuổi xuống đầu thai vào nhà Lê Đức Chính, Trần Thị Phúc Thuần ở thôn Vân Cát, xã An Thái huyện Thiên Bản, sau lấy chồng có con. Niên hiệu Dương Hoà năm thứ 8 (1642), tổ chức thi bách thần, các kiệu của thần khác từ Tản Viên đến các Thành Hoàng đều không có sự hiển dị, riêng có kiệu Mẫu thì tấm vóc đỏ phủ kiệu bay lên trên trời, rồi hoá ra đám mây năm sắc, giữa đám mây có mảnh gấm đỏ, trên có 4 chữ lớn “Thánh Thọ vô cương” hàng dưới có 6 chữ nhỏ hơn “Mã Vàng Công Chúa tạ ân”. Các chữ này tồn tại từ đầu giờ Thìn đến cuối giờ Ngọ mới tán, thì tấm gấm lại bay từ trên không bay về trùm lên kiệu như cũ.

Cũng vào thời Hậu Lê, sau khi quy y Phật, thì Mẫu phù hộ nhà chúa Trịnh đánh giặc thắng lợi được vua phong cho chữ “Chế Thắng Bảo Hoà Diệu Đại Vương” (Làm cho thắng lợi, giữ sự hoà hoãn, là công lao của vị đại vương nữ). Đó là việc năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677).

Theo truyền thuyết về ba lần giáng sinh

Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh trước sau ba lần:

(1) Lần thứ nhất Thánh Mẫu phụng mạng giáng sinh.

(2) Lần thứ hai Thánh Mẫu bị trích xuống trần.

(3) Lần thứ ba Thánh Mẫu tình nguyện xuống trần.

Thánh Mẫu giáng sinh lần thứ nhất (1434 – 1473)

Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại ấp Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam; có một người gọi là Phạm Thái Ông, hiệu là Huyền Viên, húy là Đức Chánh, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định) gọi là Phạm Thái Bà hiệu là Thuần Nhất.

Hai ông bà ăn ở rất hiền lành phúc hậu, ngày đêm chỉ lo vun trồng cội đức, bồi đắp ngành nhân, hằng tâm đã sẵn hằng sản lại nhiều, cho nên sự làm phúc càng ngày càng tăng tiến. Nào là tô tượng đúc chuông, nào là xây chùa lập miếu, nào là san cơm xẻ áo cho kẻ bần cùng, nào là phát gạo cấp tiền cho người cô quả. Nói tóm lại là không có một việc thiện nào mà không có hai ông bà họ Phạm.

Nhưng Phạm Thái Ông, và Phạm Thái Bà, có một nỗi buồn riêng, là hào tử tức vẫn còn hiếm, buồn rồi lo, vì tuổi đã nhiều mà con chưa có, không biết lấy ai mà kế thế về sau, để giữ lấy cơ đồ họ Phạm. Thường ngày Phạm Thái Ông, cùng Phạm Thái Bà cứ thiết đàn làm chay, cầu trời khấn phật xin cho có con hậu tự. Lòng thành thấu đến trời xanh, việc cầu tự, đức Ngọc Hoàng động tâm, xét sổ Nam Tào thấy Phạm Thái Ông khi xưa làm Phó Sứ Thiên Triều Khâm Sai tra sổ, bị có điều bất công, nên phải bị tích xuống cõi trần thế; bởi vậy lời cầu của đức Phạm Thái Ông được trên Thiên Đình doãn hợp. Đức Ngọc Hoàng tức thì hạ lệnh, truyền đòi đệ nhị Tiên Nương lên chầu, mấy phút sau, đã thấy một vị Tiên Nương mặc áo hồng, gót sen nhẹ bước, quỳ lạy trước sân rồng, chờ lệnh.

Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế phán rằng: “Trần Hoàng có Phạm Thái Ông tu nhân tích đức đã lâu mà chưa có con nối hậu, nay cha muốn con xuống đầu thai làm con nhà họ Phạm ít lâu, rồi sẽ trở về Linh Tiêu vậy con nghĩ sao?”

Đức Tiên Chúa tâu rằng: “Đội đức Thiên Nhan, non cao bể rộng, khôn toan cưỡng lời, Hoàng phụ phán dạy mấy lời con xin tuân mạng”.

Đức Thượng Đế nghe Tiên Chúa cũng vui lòng thuận xuống trần, thì trong lòng vui vẻ lắm. Lúc đó, Quần Tiên tâu hỏi đức Thượng Đế rằng: “Cho Tiên Chúa xuống trần độ bao nhiêu lâu”. Đức Thượng Đế liền cất bút son ngự phê hai chữ Linh Tiêu trên đầu tên của đức Tiên Chúa, và phía dưới năm chữ: “Tứ phương lai cúng Phật” . Rồi truyền cho lui chầu.

Buổi Thiên Triều hội nghị chính vào ngày rằm tháng sáu năm Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên lục niên (1433), triều vua Lê Thái Tổ. Giờ Tý đêm hôm đó, Phạm Thái Bà nằm chiêm bao thấy có Đức Tây Cung Vương Mẫu cho một quả đào, mùi thơm ngào ngạt, kế đó Phạm Thái Bà có thai.

Đến ngày giáng thế, Đức Tiên Chúa trước vào lạy Đức Hoàng Phụ, và Mẫu Hậu, rồi trở ra chào văn võ bá quan cùng các vị Quần Tiên, và dặn dò đâu vào đó, xong rồi mới bước lên loan xa đã chờ sẵn trước Thiên Môn, tức thì:

Sanh ca đàn hát đôi bên

Dập dìu phụng liễn xuống miền nhân gian

Cờ bay nhạc nổi trống vang

Theo hầu Tiên Chúa cả đoàn Tiên Nga.

Đêm đó Phạm Thái Ông nằm ngủ, mơ màng thấy các vị Tiên Nga vào nhà mình, mùi thơm ngào ngạt, Phạm Thái Ông vội vàng khăn áo chỉnh tề để ra nghênh tiếp. Khi bước xuống thềm, vì lòng kính sợ, khúm núm thụt lùi trật chân sắp ngã, lúc đó Phạm Thái Ông giật mình tỉnh dậy thì Phạm Thái Bà đã sinh được một người con gái:

Nhãn quan lóng lánh tinh thần

Mây ngần vành nguyệt giá ngần vóc sương

Má đào môi hạnh phi thường

Giá so Tố-nữ Tiên-Nương khôn bì

Lúc đó chính vào giờ dần, niên hiệu là Thiệu Bình nguyên niên, triều Vua Lê Thái Tôn Hoàng Đế (1434) trong nhà thơm nức mùi hoa huệ, ai ai cũng lấy làm mừng, và lấy làm lạ. Hoa huệ đó là các vị Quần Tiên đem dâng đức Tiên Chúa trong khi tạm biệt.

Phạm Thái Ông thấy con mình hình dung tuấn tú, cốt cách phi phàm, lại nhân thấy chiêm bao các vị Tiên Nga vào nhà, nên đặt tên là Tiên Nga. Gặp cảnh lão bạn sanh châu, Phạm Thái Ông cùng Phạm Thái Bà chăm nom săn sóc cho một cách khác thường, nói không hết được, thật là:

Yêu như ngọc dấu như ngà

Nâng châu rún biển, hứng hoa lưng trời

Màn the trướng gấm thảnh thơi

Thâm khuê dưỡng dục, khác vời Tiên cung.

Phạm Thái Ông cùng Phạm Thái Bà từ khi sinh ra Tiên Chúa thường bảo nhau rằng:

“Từ khi kết nghĩa với nhau đã hơn hai mươi năm, mà chưa hề sinh nở lần nào, thế là biết hào tử tức của ta hiếm lắm, bây giờ ta đã già rồi mới có. Chắc vì thường ngày chúng ta hay làm những điều phước thiện, cho nên Hoàng Thiên không nỡ phụ lòng, thật là cảm ơn Trời Phật không biết nhường nào”

Phạm Thái Ông, cùng Phạm Thái Bà nghĩ vậy, nên lại lo làm những điều phước thiện hơn trước. Ngày tháng thoi đưa, thì giờ thấm thoát, Tiên Chúa đã lên năm tuổi, tức là năm Mậu Ngọ niên hiệu Lê Thiệu Bình ngũ niên (1438). Đức Tiên Chúa biết mình thác sinh vào cửa nhà giàu, trong lòng không lấy làm vui, vì Đức Tiên Chúa tự nghĩ sinh vào nhà nghèo thì Đức Tiên Chúa dễ báo hiếu hơn. Đến năm Quý Hợi niên hiệu Thái Hòa nguyên niên (1443) triều Vua Lê Nhân Tôn, Đức Tiên Chúa lên mười tuổi khi đó đã có tri thức thông minh, con gái trần gian vào tuổi đó đương độ thơ ngây, có biết gì là sự khôn dại, là sự hiếu thảo, nhưng Đức Tiên Chúa đã xuất tính khác thường, rất là hiếu thuận, cung phụng hai thân mẫu, mùa hạ quạt mát mùa đông chăn mền. Những khi Phạm Thái Ông, hay Phạm Thái Bà có đau ốm thì Đức Tiên Chúa ngồi hầu luôn bên trướng, nửa bước không rời, lo chăm thang thuốc, lo việc cháo cơm, đến khi nào cha mẹ hết bệnh thì Đức Tiên Chúa mới an lòng. Có một đêm về mùa đông tuyết sương lạnh lẽo, Phạm Thái Ông lâm bệnh đã ba bốn ngày, thuốc thang không chuyển. Đức Tiên Chúa lấy làm lo lắng, ngày biếng ăn, đêm quên ngủ, vóc ngọc mình mai, hình dung tiều tụy, thật là bề trong trăm phần buồn bã, mà bề ngoài giả dạng làm vui, để cho Phạm Thái Bà yên dạ. Nhưng thấy bệnh Đức Phạm Thái Ông không giảm, Đức Tiên Chúa trong lòng hoảng hốt lúc đó lẻn dậy một mình, thắp hương ra giữa thinh không khấn với Phật Trời, phù hộ cho cha bệnh tình thuyên giảm. Phạm Thái Bà trở mình sực tỉnh không thấy con, liền gọi cũng không thưa, bèn thắp đèn đi tìm, Đức Phạm Thái Ông thấy thế cũng thức dậy. Bất đồ Phạm Thái Bà ra đến giữa sân, thấy Đức Tiên Chúa đương quỳ khấn nguyện, tuyết xuống phủ cả người, Phạm Thái Ông cùng Phạm Thái Bà thấy con như thế cảm động quá, chờ cho con khấn xong, mới gọi vào thay áo đi nghỉ. Đức Phạm Thái Ông thấy con mình còn nhỏ, mà đã chí hiếu như vậy, trong lòng khoan khoái vui tươi, từ đó về sau bệnh đều thuyên giảm, thật là:

Năm lên mười tuổi khôn thay

Một bề hiếu thuận nết na ai tày

Thung thuyên sớm dép túi dày

Quạt nồng đắp lạnh đêm ngày vào ra

Tôn thần thượng mục hạ hòa

Lời ăn tiếng nói nhu hòa khoan thai

Đủ điều ngôn hạnh công dung,

Song xem cốt cách khác người trần gian.

Đến tuần tam ngũ phương phi

Bạn tấn khách tấn dập dìu vãng lai.

Phạm Thái Công mới hỏi con:

Chiêu thân sớm định để già tâm khoan

Thấy con dưới gối thừa hoan

Thân con nên phải lo toan việc nhà

Đức Tiên Chúa, nghe song thân dậy thế, cũng cảm động, nhưng Tiên Chúa nhất định thủ tâm trinh bạch, bụi trần không chút vương dơ, liền tự nghĩ thưa rằng:

Nay con, đội đức sinh thành,

Ơn tày biển rộng nghĩa đà non cao

Hổ thần chút phận thơ đào

Hình lâm tử tức triệt vào cung phu

Cuộc đời như thể phù vân

Thần Tiên bận lấy duyên trần làm chi

Nhớ khi nuôi dưỡng phò trì

Nghĩ sao báo đáp ơn nghĩa cho phụ

Con xin dốc chí đường tu

Chiều hôm ban sớm duy du vui cùng

Mặc ai mối điệp tin ong

Mặc ai lá thắm chỉ hồng bạn duyên

Khi xưa phẩm cách người Tiên

Lẽ nào nỡ để hồng liên bùn lầy

Phạm Thái Ông, cùng Phạm Thái Bà nghe con nói đã cạn lời, ngỡ rằng con mình tiền thân Phật Quan Thế Âm giáng sinh chăng, nên cũng chiều lòng con, không nói đến sự nhân duyên nữa.

Đến năm hiệu Lê Thánh Tôn Quang Thuận tam niên, ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462) Đức Tiên Chúa hai mươi chín tuổi, thì Đức Phạm Thái Công tạ thế.

Ngán thay dưới đất trên trời.

Một người mà gánh hai vai thâm tình

Báo ân tứ đức sinh thành

Gần xa ai kẻ nức danh nữ tài.

Cử tang mới được hai năm, vừa Phạm Thái Bà cũng theo Phạm Thái Ông về nơi cực lạc. Tức là năm Giáp Thân niên hiệu Vua Lê Thánh Tôn Quang Thuận ngũ niên (1464), Đức Tiên Chúa lên ba mươi mốt tuổi, Đức Tiên Chúa đau lòng xót ruột ngất đi tỉnh lại không biết mấy mươi lần. Than ôi! trên không anh, dưới không em, một mình bối rối, ngậm thảm nuốt sầu, khó bề toan liệu, bèn mời các bậc trưởng lão trong làng, trong xóm lại bàn, các ông trông thấy Đức Tiên Chúa nết na hiếu đễ, ai cũng thương tình, rồi người giúp việc này, kẻ đỡ việc khác, sự tống táng Phạm Thái Bà rất là trọng hậu. Đức Tiên Chúa – Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ Phụ thân và Mẫu thân của Phạm Tiên Nga).

Thân Đức Tiên Chúa bao quản tàn toan, nào hầu hạ họ đương làng nước, nào tiếp đãi kẻ viếng người thăm, nào lo việc thiết đàn làm chay, cầu siêu cho song thân, nào lo việc tống táng an toàn, nào lo sắm cỗ bàn thực phẩm để tiếp đãi bà con làng xóm, một mình Đức Tiên Chúa trăm tính ngàn toan, lo xong đâu vào đó rất là chu đáo. Sau việc tống táng xong rồi, Đức Tiên Chúa lại lo báo đáp những kẻ có công, lạy tạ những người giúp việc, không sót một điều gì đáng trách được, đến tuần tứ cửu làm chay, đại đàn bố thí bảy ngày đêm, Đức Tiên Chúa cầu nguyện cho vong linh hai thân được siêu độ, lòng hiếu thảo thấu đến cửu thiên.

Đức Thượng Đế liền truyền đem bộ trắc giáng ra ngự lãm, Đức Thượng Đế thấy Tiên Chúa còn mười năm nữa mới đến hạn quy tiên. Còn Phạm Thái Ông, cùng Phạm Thái Bà, hằng ngày lo làm điều phước thiện, tu nhân tích đức, cũng được siêu độ.

Từ ngày Thung Huyên khuất núi, Đức Tiên Chúa buồn rầu, ngày biếng ăn, đêm biếng ngủ, chỉ thở vắn than dài, không còn muốn gì nữa, ở trong làng có một ông cụ già, thấy Đức Tiên Chúa nết na hiếu thuận cũng thương tình, mới đến khuyên giải, bày vẽ cho Đức Tiên Chúa rằng: “Đạo làm con, khi cha mẹ mất rồi, không phải là than phiền như thế mãi mới là hiếu, hai ngài không có con trai, chỉ một mình cô là gái, mà cô không xuất giá, thế là gái cũng như trai, cô nên giải sầu làm vui, chăm sóc làm ăn, mà giữ bền cơ nghiệp, kẻo một mai cơ đồ sa sút, chắc hai ngài ở dưới hoàng tuyền cũng không được thỏa dạ, cô nên nghĩ lại, khuya sớm giải khuây”

Đức Tiên Chúa nghe nói, mới hồi tỉnh liền quỳ xuống lạy tạ mà rằng: “Thưa Cố, những lời Cố dạy con xin ghi tạc vào lòng, và ơn đó, sau này con không dám quên”.

Từ đó về sau, Đức Tiên Chúa canh cửi vá may, lo lắng làm ăn, không buồn rầu như trước nữa. Có một hôm Đức Tiên Chúa thấy chiêm bao có bà Tam Tinh Công Chúa lại nói rằng: “Tôi là con gái Vua Động Đình; vâng mệnh lệnh đem vàng bạc châu báu lại giúp”. Quả nhiên, trong khoảng mười năm đó, tài chí như xuyên, Đức Tiên Chúa làm ăn phát đạt, chẳng bao lâu mà Đức Tiên Chúa giàu gấp năm gấp mười hơn trước. Đức Tiên Chúa cảm cái ơn đó, nên bây giờ cứ đệ niên đến ngày mười hai tháng tám là ngày kỵ Vua Động Đình thì Quần Tiên hội lại, trần thiết lễ nghi làm lễ chiêm bái, để tỏ lòng không quên gốc và ơn. Đức Tiên Chúa giàu thêm lên bao nhiêu, thì Đức Tiên Chúa lại làm phước thiện bấy nhiêu, nào trợ cấp cho đồng dân lo dựng chùa lập miếu cho làng, lo xây lăng đắp mộ cho các vị Tiên Linh, và sửa sang nhà từ đường để phụng sự, còn dư giả bao nhiêu, Đức Tiên Chúa bố thí cho tất cả bốn phương dân cùng.

Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi). Mẫu đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung). Cùng với việc đắp đê, Mẫu còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dậy dỗ con em nhà nghèo được học hành. Năm 36 tuổi, Mẫu đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ. Sau đó hai năm, Mẫu tới tu sửa chùa Sơn Trường – Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn – Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn Xá – Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn Xá, Mẫu còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dậy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), Mẫu trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy Mẫu trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó Mẫu lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều thiện phước.

Ngày tháng thoi đưa, chẳng bao lâu mà hạn của Đức Tiên Chúa về Linh Tiêu đã đến. Một buổi chiều kia, về tiết mùa xuân, năm Quý Tỵ, hiệu Lê Hồng Đức thứ tư (1473), Đức Tiên Chúa chẵn bốn mươi tuổi. Một hôm khí trời mát mẻ, trong vườn trăm hoa đua nở, trên cành oanh hót líu lo, Đức Tiên Chúa cũng nhân khi nhàn hạ, dạo gót sen ra vườn ngoạn thưởng xuân cho tiêu sầu giải muộn, bữa đó chính là ngày mùng chín tháng giêng, Đức Tiên Chúa sực nhớ lại ngày đó là ngày vạn thọ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế. Rồi Đức Tiên Chúa mơ màng ôn lại trong trí nhớ rằng, hiện bây giờ trên điện văn minh Đức Thượng Đế còn đương:

Cân đai áo mão rỡ ràng

Các quan văn võ, bày hàng hai bên,

Quần thiên nhạc mới tấu lên

Trần chầu mã não ngự viên sẵn bày

Kim Đồng Ngọc Nữ đông thay

Bàn đào được tiến ngay ngự tiền

Đức Tiên chúa nhớ vậy lấy làm buồn lắm, nên thường thường trông cho ngày tháng mau qua, để đến hạn về trời mà hưởng vui cùng chị em trong cung Quảng. Bước qua tháng ba năm Quý Tỵ (1473), đêm mùng một, Đức Tiên Chúa thấy vị Thổ Thần tức là Phùng Vương đến tâu với Đức Tiên Chúa rằng:

“Quảng cai Long Mạch bấy lâu

Phụng sai rước Chúa về chầu Tiên Cung”

Tâu xong, bỗng có một trận gió ào ào, làm cho đổ lộc rung cây, có một đám mây ngũ sắc dựng lên, mùi thơm ngào ngạt, kế đó đá trên không trung rơi xuống, hiện ra các bà tiên nữ, Đức Tiên Chúa xem ra, đã thấy Quần Tiên chầu sẵn, có hai bà Tiên nữ, một bà bưng quả ngọc thạch, một bà bưng một quả ngọc đào, dâng lên Đức Tiên Chúa, liền đó, Tiên Chúa giở ra, sẵn có con dao, Đức Tiên Chúa liền cầm dao cắt quả đào, trật tay, rơi ba dây máu, ba dây máu ấy, bây giờ gọi là Ba Khê Công Chúa. Tiên Chúa còn đương xem ngón tay, thì xa loan đâu đã đến nơi rước Đức Tiên Chúa về chầu Thượng Đế; bữa đó chính là ngày mùng hai giờ Dần, tháng ba năm Quý Tỵ niên hiệu Hồng Đức thứ tư, triều Vua Lê Thánh Tôn (1473). Quần Tiên vâng mệnh chỉ truyền, Tam Tinh cùng với Chúa Tiên phản hồi, khi Tiên Chúa về đến Linh Tiêu, trước vào bái yết Phụ Hoàng, cùng Mẫu Hậu, rồi ra chào văn võ bách quan, sau đi thăm các vị Quần Tiên, cùng chị em trong cung Quảng thiệt là:

Bầu trời cảnh phật non tiên

Mới hay vui thú khác miền trần gian

Linh Tiêu ngày tháng thanh nhàn

Tràng sinh đơn nhược rõ ràng là đây.

Ngay sau khi Mẫu mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ, đồng thời quê mẹ của Mẫu là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của Thánh Mẫu gọi là Phủ Quảng Cung (thờ Công Chúa Liễu Hạnh).

Thánh Mẫu giáng sinh lần thứ hai (1557 – 1577)

Tại thôn Vân Cát, xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định có một người tên là Lê Thái Ông hiệu là Đức Chánh. Vợ Trần Thị Tự hiệu là Phúc Thuần, ăn ở rất hiền lành phúc đức, ngày làm việc thiện gì thì đêm thắp hương cáo với Hoàng Thiên, Hậu Thổ trăm lần như một, đến năm bốn mươi tuổi, mới sinh được một người con trai đầu lòng đặt tên là Lê Lục. Đức Lê Thái Ông nguyên dòng dõi họ Trần, nhưng sau gặp loạn Hồ Quý Ly và Trương Minh Phụ giết hại Trần tôn thất nhiều quá, nên phải cải họ Trần ra họ Lê cho khỏi bị họa.

Đến năm Đinh Tý, Thiên Hữu nguyên niên triều Vua Lê Anh Tôn (1557), Lê Thái Bà có thai lần thứ hai, đã quá ngày sinh, mà chưa sinh được. Thường ngày các thức mặn không ưa, chỉ thích hoa quả mà thôi, trong nhà thấy thế, ngỡ là yêu quái nhiễu, bèn thiết đàn mời thầy phù thủy đến coi trừ tà trị bệnh, nhưng không hiệu quả, bệnh lại tăng thêm. Một hôm về tuần tháng 3 trời thanh trăng tỏ có một người chít khăn nâu áo vải ra dáng đạo nhân, đứng ngoài cửa xin vào chữa bệnh, người nhà không cho vào. Người đạo nhân cười mà nói rằng: “Ta đây có phép hàng long phục hổ, xuất u nhập minh, thấy nhà ngươi ăn ở hiền lành mới vào cứu giải, sao nhà ngươi lại không cho vào.”

Lê Thái Ông nghe nói liền mở cửa mời vào. Người đạo nhân vừa vào nhà, thì xõa tóc lên đàn, miệng niệm thông thiên thần chú, tay rút cái búa ngọc trong tay áo ra, rồi ném xuống đất, tức thì Lê Thái Ông mê thiếp đi, bằng theo tay ngã xuống, thấy hai viên lực sĩ đầu đội nón dấu, mình mặc áo giáp, tay cầm hèo hoa, lại dẫn ông đi, thì ông cũng cứ theo đi, đường đi khúc khuất quanh co, càng lên càng cao, hết tầng này qua tầng khác, sắc trời mờ mờ như sáng trăng, trông không được rõ. Đức Thái Ông đi mãi đã mệt, không muốn đi nữa, bèn nói với hai ông lực sĩ ngồi nghỉ, nhưng hai ông không nhận lời, lại còn giục Đức Thái Ông đi gấp nữa, và nói rằng: “Kia kìa, cửa Kim Khuyết đã gần đến nơi rồi, mời ông chịu khó đi gấp kẻo trễ”. Hai ông lực sĩ vừa nói vừa giục, tay chỉ cho Thái Ông xem, Thái Ông bất đắc dĩ cũng phải theo. Đi được một chốc nữa vừa đến, thấy một cái cửa làm toàn bằng vàng, sáng chói cả mắt, phía ngoài cửa ở tầng trên có hai con rồng chầu mặt nguyệt, ở tầng dưới có hai con phụng ngậm quyển thư, ở tầng trong có hai con kỳ lân giỡn quả cầu, ở tầng dưới có hai con quy đội đồ bát quái, làm toàn bằng ngọc cả. Đức Thái Ông đang ngẫm nghĩ một hồi thì hai ông lực sĩ đem áo lại cho ông thay, lại đưa ngài qua chín tầng cửa nữa mới đến một tòa nhà làm bằng mã não, hai người lực sĩ bảo ông đứng lại đó mà chờ. Mấy phút sau, chợt thấy đám mây hồng dựng lên, mùi thơm ngào ngạt, thấy ở trong đám mây bước ra một vị tóc bạc phau phau, khuôn mặt vuông chữ điền, màu da đỏ thắm, đội mũ bình thiên, tay cầm ngọc như ý, mình mặc long bào, ngồi trên một chiếc long ngai bằng vàng để trên bệ ngọc, chung quanh mình có một đạo hào quang chiếu sáng rực rỡ khắp một vùng trời, bốn phía có che cái tàng tía, hai bên có các quan đứng chầu, áo mão xiêm đai, văn quan võ tướng kể biết bao nhiêu, rất là nghiêm chỉnh, ở dưới trần thế Thái Ông chưa từng trông thấy. Nhạc quân thiên bắt đầu tấu trước, khúc nghê thường chén gót múa sau, trên mâm lưu ly dâng quả bàn đào của Đức Vương Mẫu trong bình đơn dược của Đức Lão Quân, hàng hà sa số châu bảo, không kể xiết.

Một lát, thấy một vị Tiên nữ áo hồng y vào làm lễ, bưng chén ngọc rượu chúc thọ, sẩy tay rơi xuống, lúc đó bên tả có một vị quan giở quyển sổ ngọc, biên vào ước chừng mười chữ, rồi thấy vị ngồi trên ngai rồng ở giữa thịnh nộ lôi đình liền quở rằng: “Sao người không tròn phận sự giữa Đế Đình như thế”. Đoạn rồi có hai vị sứ giả, và mấy người thị nữ, dắt người Tiên nữ mặc áo hồng ra đi ngã cửa nam, có một người cầm kim bài đi trước, trên kim bài có đề hai chữ Sắc Giáng, ở đoạn dưới có hai chữ Nam Nam, ở dưới nữa thì có nhiều chữ nhỏ, vì Lê Thái Ông đứng xa trông không được rõ. Lê Thái Ông quay lại hỏi hai ông lực sĩ rằng: “Đây là chỗ nào? đó là ai? và chuyện gì thế?”. Một người lực sĩ đáp rằng: “Đây là Thiên Đình, người ngồi giữa là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn người con gái mặc hồng y là Đệ nhị Quỳnh Nương bị trích giáng”. Người Lực sĩ vừa nói xong thì ở phía sau tả có một người quát hỏi: “Các ngươi làm chức tước gì, ở nơi nào dám tới đây?”, hai viên lực sĩ thưa rằng: “Chúng tôi là ngũ lôi thần binh, đến chờ chỉ”. Nói thế rồi hai viên lực sĩ lại đem ông về, lúc về thì bên thành trống đã tàn canh, Lê Thái Ông lần lần tỉnh lại. Lê Thái Bà đã sinh đặng một người con gái rồi.

Mùi thơm ngào ngạt, ánh hào quang rực rỡ đầy nhà, ai cũng lấy làm vui mừng. Trong khi cả nhà đang vui mừng cười nói, xóm làng bà con xa gần đều đến viếng thăm mừng rỡ, hiện lúc đó, thì ông đạo nhân đã biến đi lúc nào không biết, ai nấy cho là sự linh cảm, ngợi khen và bái tạ ông đạo nhân. Bữa đó chính là ngày Giáp Dần, giờ Dần tháng Ba (mùng ba tháng bính thìn), năm Đinh Tỵ niên hiệu Lê Thiên Hựu nguyên niên, triều vua Lê Anh Tôn (1557). Lê Thái Ông tưởng đến sự xuất thần cho được trông thấy như thế ắt là Tiên nữ giáng sinh, rất là mừng lắm, cho nên mới đặt con tên là Thắng hiệu là Giáng Tiên. Nhà Lê Thái Ông sở dĩ mà được Đức Thiên Chúa hạ sinh vào đó là nhờ được ngôi mộ tổ tam đại kết, ngôi mộ đó tọa khôn hướng cấn, ở xứ La Hào, thuộc làng An Thái, huyện Vụ Bản.

Đức Tiên Chúa lớn lên, da trắng phau phau, tóc mây xanh mướt, mắt long lanh như thu ba, mày vòng cong hình bán nguyệt, nhan sắc dị thường, trần gian hiếm có. Lê Thái Ông, cùng Lê Thái Bà yêu dấu như châu, như ngọc, cả ngày chỉ thay nhau bồng ẵm. Tháng ngày thoi đưa, chẳng mấy chốc mà Đức Tiên Chúa lên 5 tuổi, thường thường Đức Tiên Chúa ra chơi nhà ngoài, hỏi Đức Thái Ông những chữ trên câu đối, Lê Thái Ông bày qua cho một lượt, Đức Tiên Chúa nhớ suốt cả. Lê Thái Ông thấy tư chất thông minh, mới bày cho vịnh phú ngâm thơ và cho đi học, đến năm mười tuổi (1566) nào là ngũ kinh tứ thư, Đức Tiên Chúa đã thuộc lòng thông thạo, nói tóm lại Đức Tiên Chúa thông minh vốn sẵn từ trời.

Vả lại nhà Đức Thái Ông lại đông khách kẻ ra người vào, nên Đức Tiên Chúa không chuyên cần đặng sự học hành nghiên bút. Đức Tiên Chúa liền xin phép Lê Thái Ông cùng Lê Thái Bà ra ở riêng một cái nhà ở vườn sau cho tịnh, để đọc sách ngâm thơ, hai thân liền chiều ý Đức Tiên Chúa. Vì Lê Thái Ông cùng Lê Thái Bà thấy Đức Tiên Chúa thiên tự minh mẫn, nên đã làm sẵn cái nhà, đó là bản tâm để cho Tiên Chúa tịnh dưỡng, và tiện bề đèn sách. Đức Tiên Chúa thường hay đề thơ vịnh phú, đọc sách gẩy đàn.

Một ngày kia Lê Thái Ông dạo chơi trước sân, bỗng nghe Đức Tiên Chúa gảy tiếng đàn thanh tao, văng vẳng như nhạc quân thiên ở trên Thiên Cung mà ông đã nghe trong lúc mê thiếp theo hai viên lực sĩ ngày trước đó. Lê Thái Ông mới nghĩ rằng, con mình là người ở Thiên cung, thác sinh về nhà mình là nhà trần gian sợ không nuôi được, lấy làm lo cho tương lai của con. Nghĩ thế, liền bàn với Lê Thái Bà rằng, con mình tôi sợ e khó nuôi, chúng ta nên đem gửi cho ông bạn là Trần Công làm nghĩa nữ. Bàn thế, Đức Thái Ông cùng Thái Bà đồng ý, liền đem Đức Tiên Chúa gửi cho Trần Công, thì Đức Trần Công vui lòng nhận Đức Tiên Chúa làm nghĩa nữ.

Nguyên Đức Trần Công là một ông quan hồi hưu, dòng dõi Trần triều, kiều cư vào thôn Vân Cát, là quán của thân mẫu ngài. Sau khi Đức Trần Công đã bằng lòng nhận Đức Tiên Chúa làm nghĩa tử rồi, Đức Thái Ông làm cho Đức Tiên Chúa một cái biệt thự ở sân gần bên vườn hoa, cho Đức Tiên Chúa ra đó ở cho thanh tịnh, cố chăm nom đèn sách.

Không ngờ đó, về thôn Vân Đình cũng thuộc về làng An Thái lại có một nhà lão quan họ Trần không có con, nguyên một đêm kia, nhân khi nhàn hạ, gió mát trăng thanh, mới dạo gót ra vườn hoa chơi, tự nhiên gặp được người con trai ở dưới gốc cây đào, ngài Trần lão quan liền đem vào nuôi mà đặt tên là Đào Lang. Ngài xét thấy Trần Đào Lang thông minh đĩnh ngộ, diện mạo khôi ngô, Ngài liền cho đi học. Vì Trần lão Ông, cùng Trần lão Bà không có con cho nên thương chàng Đào Lang như con, đã hết sức dạy vẽ đủ điều, chẳng bao lâu đã văn hay chữ tốt, tiếng tăm lừng lẫy khắp trấn Sơn Nam.

Đến năm Quý Dậu niên hiệu Gia Thái nguyên niên, triều Vua Lê Thế Tôn (1573), chàng Đào Lang lên hai mươi tuổi, mà Đức Tiên Chúa đúng mười bảy tuổi. Thường ngày Trần lão quan hay qua lại chơi nhà Đức Trần Ông, thấy Tiên Chúa nhan sắc tuyệt vời, thông minh quán chúng, bèn cậy người mối chước tới Lê Thái Ông và Đức Trần Công để cầu hôn cho chàng Đào Lang. Song thân của Đức Tiên Chúa, và Đức Trần Công nghĩ rằng nhà họ Trần lão Ông cũng dòng dõi trâm anh, mà chàng Đào học hành cũng nức tiếng, đã đồng hương, lại cân đối tài sắc nên hai thân của Đức Tiên Chúa cùng dưỡng phụ dưỡng mẫu đều ưng thuận. Nhưng Đức Tiên Chúa một hai không chịu, chỉ muốn thanh tu cho khỏi trần lụy, nhưng Lê Thái Ông, cùng Lê Thái Bà đôi ba lần khuyên giải, và nhất định hứa hôn cho chàng Đào Lang. Tiên Chúa tự nghĩ đã xuống cõi trần, thôi cũng đành tạm kết duyên cho tròn kiếp, nên bất đắc dĩ cũng phải vâng lời cho đẹp lòng hai thân. Đến năm mười tám tuổi, Đức Tiên Chúa bái biệt thân phụ, thân mẫu, cùng dưỡng phụ, dưỡng mẫu để vu quy với chàng.

Khi Đức Tiên Chúa từ giã song thân, trở về cùng với lang quân, cử chỉ trong gia đình rất là nghi lễ, kính thờ, giữ đạo thần hôn, trong họ ngoài làng ai ai thấy đều khâm phục, đáng làm gương cho bạn nữ lưu: đạo đức, lễ nghi, trinh thuần, hiếu nghĩa, không thể tả đặng. Được một năm, Đức Tiên Chúa sinh được một người con trai, đặt tên là Trần Nhâm, mặt vuông tai lớn miệng rộng trán cao, thật là đúng trang hào kiệt. Những khi nhàn hạ, chàng Đào cùng Đức Tiên Chúa xướng họa thi ca, quang cảnh lạc thú trong gia đình ai thấy cũng khen ngợi.

Nhưng… than ôi! Tạo hóa trêu người, ông xanh cắc cớ, không ngờ chưa vui sum hợp đã sầu chia phôi. Đức Tiên Chúa tự nhiên không bệnh mà mất, hưởng linh được hai mươi mốt tuổi, tạ thế ngày mùng ba giờ Dần, tháng ba năm Đinh Sửu, niên hiệu Gia Thái ngũ niên, triều Vua Lê Thế Tôn (1577). Song thân, cùng dưỡng phụ, nhạc phụ đau lòng xiết nỗi thảm thương, làm lễ an táng rất hậu. Mộ Đức Tiên Chúa táng tại cây đa bóng, ở làng An Thái. Kế đó, Đức Lê Thái Ông buồn sầu theo con, rồi lâm bệnh cũng tạ thế, mộ cũng táng tại đó, tọa càn hướng tốn. Triều vua Gia Long thứ tư, đổi xã An Thái làm xã Tiên Hương đến nay vẫn còn đền thờ Đức Tiên Chúa tại đó.

Thánh Mẫu giáng sinh lần thứ ba (1609-1610)

Nguyên trước Đức Tiên Chúa giáng sinh lần thứ hai, hưởng thọ đặng hai mươi mốt năm (21 tuổi), vừa tạ thế. Khi lên chầu Đế Đình, thường thường Đức Tiên Chúa cứ sầu phiền sự trần duyên chưa mãn. Đức Thượng Đế sắc phong “Liễu Hạnh Công Chúa”, cho phép trắc giáng phi thường, tiêu diêu tự thích, Đức Tiên Chúa vâng mệnh lệnh về thẳng quê hương, hiện thân thăm tứ thân phụ mẫu, và lang quân, tử tức, cùng huynh đệ. Chính là năm Kỷ ão, niên hiệu Quang Hưng nhị niên triều vua Lê Thế Tôn (1579). Đức Tiên Chúa hiển thân về thăm quê hương hai lần, rồi Đức Tiên Chúa vân du thiên hạ, khi ẩn khi hiện phi thường, lúc ngoạn cảnh danh lam, khi tiêu diêu bồng đảo. Về sau chàng Đào tái sinh lại tức là Mai Sinh. Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Hoàng Định thập niên, triều vua Lê Kính Tôn (1609), bấy giờ chàng Mai được hai mươi tuổi, Đức Tiên Chúa mới giáng hiện để tái hợp với chàng Mai Sinh. Đức Tiên Chúa qua Sòng Sơn tỉnh Thanh Hóa, có một dãy núi toàn là cây đào xanh tốt dưới lại có một hòn đá vuông bằng phẳng, Đức Tiên Chúa mới lấy cành lá quét sạch ngồi chơi, trông xem bốn bể cảnh trí thiên nhiên không khác đào nguyên tiên cảnh, nhưng hiềm một nỗi vắng khách tri âm, biết cùng ai ngâm thơ vịnh phú. Đức Tiên Chúa lại gần bên khe nước ném hoa rụng mà chơi, bỗng thấy gã thư sinh, hình dung tuấn tú, cốt cách phi phàm thẳng đường Tây Mỗ đi tới, Đức Tiên Chúa biết đích là Đức lang quân tái sinh mới đứng đường xa bảo rằng: “Tôi nhân đi chơi hội, vì quá vui chân bước tới đây, bây giờ quên cả lối về, may gặp quý khách qua đường, xin mang ơn chỉ giúp”.

Gã thư sinh kia ngỡ là con gái giang hồ, không bằng lòng nên giả cách không nghe, rồi cứ rảo bước đi thẳng. Nguyên gã thư sinh đó chính là chàng Đào Lang thủa trước nhân vì sầu uất cho nên lại tái sinh lần nữa, lần này tái sinh nhà họ Mai làng Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chàng Mai Sinh tuổi mới hai mươi, chí khí khác thường, thông minh quán thế, song thân đều qua đời hết, anh em không có, nhà cửa lại nghèo, vợ con chưa có, ngày đó đi học về. Không ngờ lại gặp Đức Tiên Chúa, tính ngài nghiêm chỉnh ghét sự nguyệt hoa, vả lại ngài không nhớ kiếp tiền sinh của ngài nên mới cự tuyệt.

Ngày bữa sau, chàng Mai Sinh đi học lại đi ngang qua chỗ đó, thấy có một mảnh giấy dán ở cây đào trong có bài thơ vịnh cây đào rằng:

Diệm chất thiên nhiên bất giả tài

Phương tâm trinh thù kỷ niên lai

Khi dung trần tục đằng nhàn kiến

Trực đãi xuân quân thứ đệ khai

Tố nữ tương tri trường ngã chiếu

Phong di truyền tín vị thùy môi

Tảo tri lưu thủy vô tình luyến

Mạc tử phi hồng trục khách bôi

Dịch nghĩa:

Vóc đẹp trời sinh há sửa bày

Lòng thơm gìn giữ mấy năm nay

Dễ dàng mắt tục bao giờ thấy

Lần lượt mùi hoa đợi gió bay

Bóng nguyệt quen nhau sai đỏ mãi

Tình xuân đưa mối đợi ai rày

Sớm hay dòng nước tình xao lãng

Nỡ để hồng rơi dục khách say.

Chàng Mai Sinh xem bài thơ xong khen rằng “thật là tài nhả ngọc phun châu, không ngờ giữa trần thế ở đây lại có tiểu thư nào tài tình đến thế, thật là đáng phục”. Khi đó chàng Mai Sinh liền họa một bài thơ rằng:

Tạc kiến giao trì điện ngoại tài

Như hà Tiên chủng lạc trần lai

Mảng tiền phàm thảo nhàn vô ngữ

Độc bạn u lang không tự khai

Huyền quảng phong quang ung thủ tiếu

Chân môn cuồng đảng cảm thông môi

Tương phùng lâm hạ tăng trù trướng

Dục túy là phù nhất tửu bôi.

Dịch nghĩa:

Liếc mắt đền giao trước sẵn bày

Dòng Tiên lưu lạc tới gì đây

Chán trông ngọn cỏ thầm nín

Riêng với mùi lang thoang thoảng bay

Đàn sáo xôn xao cười những thế

Bướm ong lơi lả dám đầu rày

Dưới rừng gặp gỡ càng vơ vẩn

Một chén non thần đã muốn say

Chàng Mai Sinh đề thơ xong, muốn đi tìm tiểu thư nhưng sợ đường đột quá, vả chăng bữa trước thì làm cao, nay đi chỗ này chỗ khác mà tìm cũng bất nhã, nên phải nén lòng mà về. Lúc bấy giờ trời mưa dầm ngót đã mấy ngày, lòng càng áy náy, chàng Mai Sinh liền làm luôn một bài thơ nữa cho thỏa tình khát vọng.

Ngâm rằng:

Tài hà giai, tình hà hảo nhất phiến tài tình khiêu khách nào, khách nào kỷ thời hưu tương tầm bất phạ giao. Phong nhất hởi, vũ nhất chí, vu ta chỉ xích thành thiên lý, vũ bá phong đi nhất bạc tình, xuân sầu tịch mịch hộ thường khuýnh kỷ hồi mộng nhiễm đào nguyên lý, dục bả thiên kim mãi nhất tỉnh.

Dịch nghĩa:

Tài kia giỏi tình này hay, tài tình trêu người chi lắm nỗi, trêu nhau thế thế à, tìm nhau chẳng ngại xa, cơn mưa dầm cơn gió bấc hỡi ôi! gang tấc xa thăm thẳm, dì gió anh mưa tệ lắm thay. Buồn xuân vắng vẻ chốt thoan này, Nguồn đào xa thẳm chừng bao nhỉ? Mưa tạnh nghìn vàng cũng muốn ngay.

Cách hôm sau mưa hòa gió tạnh, trời đất quang minh, chàng Mai Sinh đi ra vẫn tưởng bài thơ chàng đề bữa trước bị mưa phai lợt, chẳng biết tiểu thư đã đọc đến cho chăng. Khi chàng đến nơi xem, thì hoa đào tươi thắm, như lúc chưa mưa, bài thơ nét mực như y, mà người ngọc bây giờ không thấy, chàng Mai Sinh lại đem thơ trước họa lại thêm một bài nữa rằng:

Vạn chủng tương tư trần nhất tài

Tấm phương nhẫn phụ thử phiêu lai

Sổ hàng cẩm tự nhân như tại

Nhất trận xuân phong họa chính khai

Thủy cổ trùng mông, quân hữu ý

Khiêu kỳ thắc hận ngã vô môi

Vu ta kỳ ngộ thành ô hữu

Sầu hải mang mang tiếp độ bôi.

Dịch nghĩa:

Trăm mối sầu riêng những rỗi bày

Một phen nỡ phụ tới tìm đây

Người in chữ gấm đôi hàng mới

Hoa bán mùi xuân một trận bay

Dạ ngọc ân cần khen đó cũng

Tin sương ngơ ngác giận ta rày,

Than ôi! gặp gỡ còn đâu thấy

Man mác bể sầu mượn chén say

Chàng Mai Sinh họa bài thơ vừa xong, bỗng nghe trong rừng có tiếng chào hỏi. Chàng Mai Sinh ngoảnh ra xem, thấy Đức Tiên Chúa, khôn xiết nỗi mừng, liền đến trước thi lễ mà thưa rằng: “Ngày trước được mong ân Đức Tiên Chúa có lòng hỏi đến, bần sinh này lấy làm cảm tạ. Nhưng mắt trần không biết, dạ tục rất ngây, hồi tỉnh lại lúc đầu gặp gỡ, thư sinh mong ân chẳng xiết. Không ngờ hôm nay Tiên nữ còn đoái tưởng đến hàn nho mà cho tái ngộ, không biết quả phúc thế nào nay được như vậy”.

Đức Tiên Chúa mời chàng Mai Sinh ngồi trên một tảng đá trắng, bằng phẳng như bức ghế cẩm thạch, chàng Mai Sinh ngồi đoan toạ, Đức Tiên Chúa quỳ xuống thưa rằng: “Thiếp cũng con nhà khuê các, ở nơi cạnh huyện này, song thân đều tạ thế, nhà cửa tiêu điều, không được bằng ai, nên phải lánh chốn phồn hoa, vào nơi lâm tuyền tịch mịch, may nay thiếp gặp người kiệt sĩ chân nho, nên tỏ ý giao cầu, nếu chàng không ngại gần xa, cho thiếp kết nghĩa trăm năm thế là ba sinh hương lửa”.

Chàng Mai Sinh nghe thấy bấy nhiêu lời trân trọng, đính ước trăm năm, rất là cảm tình. Liền nói lại với Đức Tiên Chúa rằng: “Đa tạ Tiên Nữ có lòng hạ cố, chẳng phụ kẻ hàn nho, nhưng song thân tôi đều mất sớm, anh em chẳng có, nhà cửa lại sơ sài thanh đạm, chỉ một mình theo việc bút nghiên. Nương thân cửa Khổng, bây giờ Tiên Nữ đã có lòng đoái tưởng, tôi đâu dám phụ lòng. Nhưng xin Tiên Nữ miễn chấp cho tôi sẽ liệu bề mai mối”.

Khi đó Đức Tiên Chúa nghiêm nét mặt mà thưa rằng: “Hai bên song thân quá cố, họ hàng thân thích đều không, biết lấy ai mà cậy người mai mối.”

Thế đôi bên “Thiết bán bái yết Thiên Đình để xin kết duyên cầm sắt”.

Đức Tiên Chúa thưa xong bấy nhiêu lời, kể vịnh một bài như sau:

Thơ rằng

Thiên thọ đào hoa hậu độ tài

Lưu lang hà hạnh hữu trùng lai

Bách niên duyên trái hoàng thiên thập

Vạn hộc u sầu tận bãi ???

Thuỳ vị xích thằng đồ lãng ngữ

Ưng tri hồng diệp thị lương môi

Cao châm tự cổ đa tiền định

Mạo oán Thiên Đình truỵ ngọc bôi

Dịch nghĩa:

Mấy cụm đào hoa vắn lạ bày

Chàng Lưu nay lại trở về đây

Trăm năm duyên nợ đành xong hẳn

Muôn hộc u sầu cũng xoá bay

Duyên bén tơ hồng ai bảo chẳng

Mối đưa lá thắm bấy lâu nay

Cảo chấm định trước từ xưa vậy

Chờ oán sân trời vỡ chén say.

Chàng Mai Sinh nghe đến câu kết, mới hỏi nghĩa làm sao có chữ “Thiên Đình” với chữ “ngọc bôi”. Đức Tiên Chúa thưa lại rằng, việc này sau sẽ biết, bây giờ tôi không dám thưa rõ, chàng Mai Sinh nghe vậy không dám hỏi nữa, liền theo nguyên vận họa lại, thơ rằng:

Làm ngọc hà duyên, cảm chủng tài

Hỷ phùng giai ngẫu tự thiên lai

Tích niên thu giạ ngân kiều cách

Kim nhật xuân viên ngọc toản khai

Xương thế tảo phùng phi phụng bộc

Ngự băng bát giả lịnh cô môi

Hàn nho giao bào tương hà nhi

Nguyện bả tân thi tạ nhất bôi

Dịch nghĩa:

Lam ngọc duyên đầu, dám chắc mà

Lứa đôi may gặp tự trời cho

Xưa cầu ngân hán còn ngăn lại

Nay khoá vườn xuân đã mở ra

Bói hộp điềm lành, tin phủ đỏ

Vắn đưa lời mối mặc ta hồ

Lấy gì tỏ giải lòng cho được

Xin mượn tơ tình tạ chén say.

Đoạn Đức Tiên Chúa với chàng Mai Sinh, hai ngài chỉ non thề ước, lạy tạ cao xanh. Bây giờ hai ngài mới kết duyên cầm sắc, một nhà sum họp, khi ăn nói lúc lễ nghi, xem trông âu yếm đều cùng kính yêu. Lúc bấy giờ chàng Mai Sinh đã phối hợp được vợ đã phong tư diễm thế, sắc tướng nghiêm trang, rồi từ đó về sau cầm sắc hoá mình, khuê phòng lạc thú, cho nên có ý xao lãng sự học hành, không được chuyên cần như trước nữa. Đức Tiên Chúa thấy thế không bằng lòng. Một hôm Đức Tiên Chúa dệt vải đã khuya mà vẫn cứ dệt để chờ Đức Mai Sinh đi chơi về, Đức Tiên Chúa mới lấy rượu ra ngồi đối ẩm. Đức Mai Sinh vô tình không biết Đức Tiên Chúa không bằng lòng nên mới bảo Tiên Chúa rằng: “Đêm nay trăng thu vằng vặc, cảnh sắc xinh tươi, trên trời nhị thập bát tú phân minh, Đức Tiên Chúa có nhớ ở chốn Thiên Tinh chăng nhỉ”

Đức Tiên Chúa nghe Đức Mai Sinh nói đến nhị thập bát tú, nên nhân đó lấy hai mươi tám vị sao làm một bài thơ khuyên phu quân.

Thơ rằng:

Nữ nhan thuỳ vị viễn thơ phong

Tất bả nguỵ tâm định chủ trương

Lân chẩn thất hư phân bích diệm

Nguyệt đê mảo giác tá lâu quang

Liễu văn tinh bính tu sâm cứu

Cơ truyện ngưu mao ý tinh tường

Thuỷ thổ khuê hàm tranh quỷ đẩu

Vũ môn nhực vỉ sầu dương cang.

Dịch nghĩa:

Nữ nhan sắc có ở thơ phòng

Giữ vững lòng siêng để chủ trương

Bên xóm đèn giong tia rọi đến

Góc lầu trăng xế bóng soi ngang

Thể văn ông Liễu nên xem kỹ

Lối truyện chàng Cơ phải xét tường

Mở miệng thơ hay tranh giải nhất

Vũ môn vùng vẫy chí thêm hăng.

Đức Mai Sinh nghe thơ biết là Đức Tiên Chúa làm thơ đó có ý khuyên mình chăm học, nên họa lại một bài văn cũng dùng hai mươi tám vị sao.

Thơ rằng:

Thôn ngưu quật tinh chí phương cang

Cơ thụ sâm truyền dĩ tất tường

Đẩu thất bích để kinh quy đởm

Nguy lâu khuê vịnh động tinh quang

Giác tài thùy vị để đường Liễu

Nhựt mảo đa tâm vi hán trương

Tố nữ thanh hư ưng chẩn ngả

Quế chi nguyệt chủy tống văn phòng.

Dịch nghĩa;

Nuốt trâu đào giếng chí đương hăng

Kinh truyện Cơ, Sâm đã biết tường

Chữ vách đề xong hồn quỷ khiếp

Thơ lầu ngâm đoạn bóng sao ngang

Thi tài ai bảo thua ông Liễu

Giúp sức ta nào kém họ Trương

Ả Tố sẵn lòng thương ta nhỉ

Thì đem cành quế tới văn phòng.

Đức Tiên Chúa nghe Đức Mai Sinh họa thơ xong, liền nói rằng: “Kẻ nho nhã học cho cách vật tri tri thông kim bát cổ để ra thi thố với đời, lập nên sự nghiệp. Còn như học lấy văn chương phù phiếm vịnh phú ngâm thơ chẳng sai lắm ru, xin phu quân tỉnh ngộ.”

Đức Mai Sinh hai ba lần tạ lỗi nói rằng: “Tôi sức hèn tài mọn, đãng trí phóng tâm may nhờ hiền thê nhắc nhủ.”

Đức Tiên Chúa nghe nói biết là đức lang quân hối quá lấy làm vui mừng nên lại chuyện trò xướng họa cùng nhau đến khi trăng lặn mới nghỉ.

Được hơn một năm, Đức Tiên Chúa sinh được một người con trai đặt tên Mai Cổn thông minh đĩnh ngộ, diện mạo khôi ngô, thế gian ít có. Sang năm sau Đức Mai Sinh đi thi đậu cả Hương và Hội, sung vào Hàn Lâm Viện rồi bổ ra làm quan. Tính ngài giản dị cho nên công việc cũng rảnh rang, thường thường cùng Đức Tiên Chúa uống rượu ngâm thơ, bên xướng bên họa, như gấm dệt như hoa thêu.

Cảnh lạc thú trong gia đình Đức Tiên Chúa diễn ra như thế, được gần một năm thì hết. Một hôm về cuối mùa đông, khí trời rét mướt, Đức Mai Sinh cùng Đức Tiên Chúa ngồi đối diện bên cạnh lò lửa chuyện trò rất là tri kỷ, ân nghĩa mặn nồng, thật là tâm đầu ý hợp.

Đột nhiên, nước mắt Đức Tiên Chúa chảy xuống như mưa, bực tức nghẹn lời nói không ra tiếng. Đức Mai Sinh lấy làm ngạc nhiên hỏi cớ làm sao, Đức Tiên Chúa thưa rằng:

“Thiếp ây là Thiên Đình đế nữ, chỉ vì lỡ tay rơi chén ngọc, nên phải tạm trích xuống trần. Thiếp đã cùng phu quân tác hợp một kiếp trước rồi, nhưng trần duyên chưa mãn, kiếp này lại tái hợp lần nữa. Nay trích kỳ đã hết Thiếp phải phụng mạng về trời.

Nhưng thảm thay… thiếp nghĩ đến phu quân gối chiếc chăn đơn, khuya sớm không ai hầu hạ, nghĩ đến con thơ đầu xanh tuổi trẻ ngày đêm ai kẻ bế bồng, thì lòng thiếp không nguôi cơn giận, khó nỗi khuây sầu.

Thôi … nhưng… mà … ly hợp bởi trời, hoan bi thường sự, bây giờ dẫu phiền sầu cho ra tóc bạc, mà khóc cho chảy máu đào, cũng là vô ích.

Vậy thiếp kính lạy phu quân, xin phu quân đừng quá thương tâm mà không giữ nổi mình vàng vóc ngọc.

Huống chi con còn măng sữa, anh em chẳng có một ai, bây giờ thiếp phải về chầu Thiên Cung, chỉ có một mình phu quân khi đau ốm, lúc sầu phiền lấy ai là người giúp đỡ, xin phu quân nghĩ lại, thiếp cũng biết sinh ly tử biệt, thê thảm nhường nào kể sao cho xiết, thử cảnh thử tình để cho phu quân trăm bề thống khổ, lòng thiếp thê thảm trăm đường cũng như phu quân vậy”.

Đức Mai Sinh nghe nói, mất vía hồn kinh, chân tay rời rã, rồi nói rằng:

“Tiên trần xa cách, may được kết duyên nghĩa vợ chồng, lẽ nào mà quên được. Ôi sao mà dễ hợp dễ ly như thế.”

Đức Tiên Chúa thưa rằng:

“Thiếp thờ phu quân đã bao nhiêu nay, xin phu quân lượng xét, thiếp không phải ham nơi bồng đảo mà quên nghĩa tào khang, nhưng kỳ hạn quy tiên đã bức cận, thế không lưu lại được nữa”

Đức Mai Sinh nghe Đức Tiên Chúa nói dứt lời thì Đức Mai Sinh lấy làm kinh hoàng nức nở khóc không nói phô gì được nữa. Đến cuối canh ba khi giờ sửu, Đức Tiên Chúa bồng con đến trước mặt Đức Mai Sinh, Đức Tiên Chúa khuyên giải một hồi rồi cúi xuống lạy Đức Mai Sinh hai lạy để xin từ biệt; lạy rồi cầm lấy tay Đức Mai Sinh khóc nức nở, tình cảnh thê thảm, Đức Tiên Chúa hết sức đau lòng. Bỗng nghe có tiếng xe loan đã đến gần trước thềm nhà, Đức Tiên Chúa lại phải giải ít lời nữa rồi bồng con trao lại cho Đức Mai Sinh. Đức Tiên Chúa quá đau đớn nắm tay Đức Mai Sinh và tay con một cách thê thảm vô hạn, kế lạy Đức Mai Sinh mà bái biệt. Đức Mai Sinh muốn níu lấy vạt áo nhưng chỉ thấy ánh hào quang rực rỡ, thơm ngát cả nhà, Đức Tiên Chúa không còn ở đó nữa. Đức Mai Sinh xót ruột đau lòng quá, bổ nhào xuống đất ngất đi một hồi mới tỉnh. Thế là Đức Tiên Chúa bái biệt Đức Mai Sinh, khi đó hóa ra đạo hào quang sáng rực mà đằng không nhi thượng cả chân hình, lúc đó vào năm Canh Tuất, niên hiệu Hoàng Định thập nhất niên, triều vua Lê Kính Tôn (1610). Từ đó trở đi Đức Mai Sinh ngày đêm rầu rĩ, chiều sớm nhớ thương, rượu không uống, thơ không ngâm, việc quan phế trễ. Thường thường than rằng: “Phàm người ta đi học ra làm quan, trên là vì nước, dưới vì nhà, như ta đây đã không có tài kinh bang tế thế, và trên không có cha mẹ, dưới không có vợ và anh em, lại đeo lấy cái lụy đọc túc cô phòng, thế là có phải vì sự ăn mặc hay sao mà còn đeo vào vòng danh lợi”. Nghĩ vậy rồi dâng sớ xin về hưu, về làm một cái nhà giữa rừng đào khi xưa đã gặp Đức Tiên Chúa để dạy con thành tài, trọn đời ở vậy.

Thông tính khi giáng khi thăng sau lần thứ ba

Tính từ khi Đức Tiên Chúa giáng hiện lần thứ ba tại Sòng Sơn ở tỉnh Thanh Hóa, tái phối với Đức Mai Sinh là tháng hai năm Kỷ Dậu, niên hiệu Hoàng Định thập niên, triều vua Lê Kính Tôn (1609). Cho đến khi Đức Tiên Chúa bái biệt Đức Mai Sinh mà lên Tiên Cung là hạ tuần tháng chạp năm Canh Tuất, niên hiệu Hoàng Định thập nhất niên, triều vua Lê Kính Tôn (1610). Thế là lần thứ ba Đức Tiên Chúa giáng sinh tái phối hợp với Đức Mai Sinh được hơn một năm rồi quy đế hương.

Nói về phần Đức Tiên Chúa khi lên Linh Tiêu, tâu với Đức Thượng Đế rằng: “Cái án trích giáng trần của con nay đã hết hạn nhưng con nhớ nghĩa ba sinh, tình duyên chưa đoạn, cúi đầu lạy xin phụ hoàng ban cho đặc ân trắc giáng bất thường để được vãng lai trần giới”. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế xét thấy hai lần Đức Tiên Chúa bị tình duyên lỡ dở nghĩ cũng thương tình nên chuẩn tấu. Rồi đòi nhị vị Tiên Nương một vị em dâu Đức Tiên Chúa, một vị cháu Đức Tiên Chúa[1], rồi ngài phán rằng: “Phen này Quỳnh Hoa (tên Đức Mẫu) xuống trần tất có sự, hay bây giờ ta cho hai Nương đi theo để giáng phúc cho dân”. Đức Tiên Chúa và hai vị Tiên Nương đó đều lạy tạ ân đức Thượng Đế rồi đằng không xuống.

Đức Tiên Chúa và hai vị Tiên Nương hiển thánh

Phố Cát tỉnh Thanh Hóa chỗ đó rừng xanh cây tốt cảnh trí thiên nhiên, ba Ngài mới hiển linh ở đó, dân thôn kinh sợ bèn thiết lập đền thờ. Khoảng năm Ất Hợi, niên hiệu Dương Hóa thứ nhất, triều vua Lê Thần Tôn (1635), khách bộ hành đi qua lại trước đền thờ đó không có lễ phép và không xuống ngựa xuống võng đều bị ba ngài khiển trách chết không biết mấy. Lúc đó triều đình ngỡ là yêu quái, sắc minh cho ông Trịnh Hoàng Phúc đem một đạo binh tới đó trừ yểm. Trịnh Hoàng Phúc cũng sợ khó lòng làm nổi nên mời một ông thầy phù thủy có danh tiếng trong nước vào đó họa phù yểm trước rồi mới cử binh đi sau. Thầy phù thủy cùng bốn người đạo tràng vừa vào đến Đèo Ngang (gần hạt Phố Cát) thì gặp một bà già chống gậy trúc đi lom khom bên đường, thầy phù thủy hỏi rằng: “Thưa bà nghe nói ở đây có một con yêu tinh thường hay quấy nhiễu nhân gian lắm phải không?”

Bà lão đáp rằng: “Phải, nhưng ông hỏi làm gì”

Thầy phù thủy nói: “Tôi là Pháp sư ra đây để trừ yểm con yêu tinh đó cho dân gian khỏi bị tai hại vì tay nó nữa”.

Bà lão lại cười: “Chớ, ông phải coi chừng với con yêu tinh đó nó cao phép lắm, chưa chắc ông trừ được nó lại nguy hiểm đến tánh mạng nữa, tôi khuyên ông về thì hơn.”

Pháp sư nói: “Bà lão không phải lo gì, chuyến này nó sẽ biết tay tôi”.

Bà lão nói “Pháp sư ơi, con yêu tinh đó kia kìa, chính nó đã hiện ra cô gái đẹp đang đi lại đó, ông phải lo mà chạy kẻo khốn”.

Bà lão vừa nói vừa chỉ tay ra đằng xa, Pháp sư ngó theo không thấy gì cả đến khi ngoảnh lại để hỏi bà lão, thì không thấy bà lão đâu, chỉ thấy một cô gái thật đẹp ngó Pháp Sư mà cười một cách rất kiêu ngạo. Pháp sư nổi giận nói: “À mày dám hỗn với tao à”, nói xong niệm chú bắt quyết liên thiên mà cô gái vẫn cứ ung dung đứng cười như trước. Pháp sư càng ấn quyết thì cô gái lại càng cười thêm, Pháp sư tức giận quá rút thanh gươm ra chém, cô gái đó cứ từ từ đi thụt lùi. Pháp sư chạy theo hết sức cũng không kịp, chỉ cách nhau vài thước mà thôi, Pháp sư cố gắng hết sức bình sinh chạy đuổi cho kịp, không ngờ khi lại gần đến nơi thì vấp phải hòn đá chẹn ngang đường ngã lăn xuống đó sặc máu chết tươi còn cô gái thì biến mất.

Mấy người đạo tràng đi theo Pháp sư thấy vậy kinh hoàng, liền về bẩm với Trịnh Hoàng Phúc. Khi đó Trịnh Hoàng Phúc trong lòng bối rối, tiến thoái lưỡng nan, tính đi thì sợ Đức Tiên Chúa làm chết, còn về e triều đình bắt tội. Sau khi đã tam tư tái tư rồi, ông quyết lòng đi vì trước để khỏi trái vương mệnh, mà sau khỏi bị nhục với triều đình, dẫu có chết cũng vinh. Nghĩ vậy nên quyết chí cử binh đi. Kh đi đường đến gần Đèo Ngang thấy xác Pháp sư còn nằm ở đó, chẳng có hòn đá nào nằm chắn đường cả, quân lính thấy thế lấy làm kinh hoàng lắm. Khi đạo quân đi đến Phố Cát thì Trịnh Hoàng Phúc ra lệnh đốt phá đền miếu. Tức thì tên bắn mù trời, sấm vang dậy đất, non sông biến sắc, cầm thú kinh hoàng. Trong chốc lát tòa đền ra tro, không còn một mảy may gì cả. Đốt đền xong Trịnh Hoàng Phúc và quân lính vẫn bình yên vô sự.

Cách vài tháng sau, cả hạt đó mắc chứng ôn dịch, người và súc vật chết không biết mấy. Dân thôn mới lập đàn cầu đảo, khi đó đột nhiên có một người nhập đồng nhảy lên hương án bảo rằng: “Ta đây là Liễu Hạnh Công Chúa giáng ứng linh đồng bảo cho các người biết chúng người phải tấu với triều đình sửa lại đền miếu, hương hỏa phụng tự, nếu không nghe lời, chúng người còn bị hại nữa”

Trong dân thôn có người hỏi: “Tâu Công Chúa, như Ngài quả thật linh ứng, sao ông Trịnh Hoàng Phúc đem binh ra đốt phá đền Ngài, Ngài lại không làm hại, còn như chúng con không có tội gì, Ngài lại trách phạt là nghĩa làm sao?”

Người đó vẫn đứng trên hương án nói:

“Ta không phải là không thiêng, mà cũng không phải sợ gì Trịnh Hoàng Phúc, nhưng ta không muốn làm chết ai. Là vì Trịnh Hoàng Phúc phụng vương mệnh mà phá miếu đền, chứ không phải lòng nó muốn thế. Như ta giết nó, ta mang tiếng chống vua, nên ta không muốn giết, còn quân lính thì theo quân lệnh mà làm chứ cũng có dám ngạo mạn gì mà trị tội cho đành.

Còn chúng người tuy không đốt phá nhưng vì quá ngu xuẩn. Há bấy lâu nay lại không biết chị em ta hiển ứng ở đây sao? Lại còn ngờ là yêu quái để đến nỗi triều đình phải sai quan quân ra đốt phá đền ta, cho ta mang lấy tiếng, bởi thế ta mới trị tội các ngươi vì lẽ đó.”

Người đó nói xong thì bổ ngửa xuống đất một hồi mới tỉnh (người đứng trên hương án truyền đó tức là Đức Tiên Chúa giáng đồng vào người đó)

Lúc bấy giờ dân thôn vâng lời cử mấy ông hương lão tới cửa đế đô để tâu bầy lai lịch sự linh ứng của Đức Tiên Chúa. Vua mới sắc hạ cho sửa đền miếu lại rất là nguy nga tráng lệ. Ngài sắc phong Đức Tiên Chúa: “Mã Vàng Công Chúa, Thượng Đẳng Tối Linh Tôn Thần”. Sắc phong tại năm Ất Hợi, triều vua Lê Thần Tôn, Dương Hòa nguyên niên (1635). Từ đó phương dân nhờ phép Đức Tiên Chúa gia hộ lại được yên tịnh như thường, ai có cầu đảo việc gì thảy đều linh ứng.

Đức Tiên Chúa hiển ứng, vua Lê Thần Tôn sắc phong Thượng Đẳng Thần

Đến năm Nhâm Ngọ niên hiệu Dương Hòa thứ tám (1642), về tiết thanh minh, vua Lê Thần Tôn lập ra một hội thi Bách Thần Thượng Đẳng, để cho biết sự linh hiển của các vị Thần Tiên.

Trước một tháng, lệnh truyền ra khắp trong nước, thỉnh Bách Thần Thượng Đẳng hội tại Điện Kiến Trung dự thi. Đến bữa thi, vua Lê Thần Tôn ngự trên ngai vàng để giám sát hai bên linh cẩn tín, và thị vệ mang gươm cầm kiếm đứng chầu ngoài sân rồng, ở chính giữa đặt một dãy hương án để cho Bách Thần tựu hội; có đủ lọng vàng tán tía, bửu kiếm long đao, hương thắp đèn chong, trầm hương ngào ngạt. Hai bên sân, văn võ bá quan áo mão cân đai đứng chầu để thị hành khảo thí trông rất là oai nghi lẫm liệt.

Đến giờ thi, vua truyền nhắc ra hai con trâu một con đen, một con trắng và phán rằng: “Hễ nghe dứt một hồi chiêng và trống vị thần nào làm chết được hai con trâu là trúng tuyển”

Đoạn rồi lần lượt xướng danh hiệu vị Thần nào thì đánh một hồi chiêng trống xong mà hai con trâu không chết thì lại xướng qua danh hiệu vị Thần khác. Từ giờ mão cho đến giờ tỵ mà chưa có vị Thần nào trúng tuyển, vị thì chưa vật đổ được con nào, vị thì mới đổ được một con mà trống chiêng đã hồi.

Đến lần xướng đến danh hiệu Đức Tiên Chúa thì thấy tự nhiên gió thổi mưa sa, sấm vang chớp giật, mù trời mịt đất, vừa dứt hồi chiêng, hai con trâu nằm lăn ra chết, đầy mình hai con trâu hơn vài trăm dấu vằm chém. Vua phê Đức Tiên Chúa trúng tuyển Giải Nguyên. Tức thì trời quang mây tạnh, hai con trâu lại được phước sanh như trước. Vua và bá quan ai cũng lấy làm kinh dị. Sau vua lại truyền cho tung lên một cây lụa điều phán rằng làm thành năm cái áo đưa xuống. Đức Tiên Chúa làm như lời. Vua nhận lấy năm cái áo đưa xuống, rồi vua lại truyền tung năm cái áo lên hẹn kết thành cây lụa đưa xuống, thì Đức Tiên Chúa cũng làm hoàn thành cây lụa đưa xuống, Vua nhận xem cây lụa như xưa rất là kinh dị.

Vua khen ngợi Đức Tiên Chúa rất là anh linh hiển ứng nên kinh phục. Tức thì Vua phong cho Đức Tiên Chúa là: “Thượng Thượng Thượng Đẳng Tối Linh, Vị Bách Thần Chi Thủ”.

Đức Tiên Chúa liền cho hiện ra giữa không trung một bức tường vân ngũ sắc như bức hoành thủ quyển đề bốn chữ địa tự: “Thánh thọ vô cương”. Dưới đề sáu chữ nhỏ: “Tiên Chúa mạ vàng kính tạ”. Vua và văn võ triều đình ai ai cũng trông thấy bức mây cứ đứng lưng chừng trước cửa Ngọ Môn hơn ba giờ mới tan, thần dân ai ai cũng kính phục, và khen ngợi tán dương sự linh ứng của Đức Tiên Chúa không thể tả cho hết được.

Người đời tôn xưng Đức Tiên Chúa là Thánh Mẫu từ đây

Sau đến đời Vua Lê Huyền Tôn niên hiệu Cảnh Trị có bọn mọi Xiêm làm loạn. Vua sai Quận Công là ông Phan Văn Phái đi tiễu trừ, nhưng thế giặc hùng dũng quá khó nỗi phá tan được. Ông Phan Văn Phái khi cử binh đi đến đèo Ngang (thuộc hạt Ninh Bình), ghé vào Phố Cát, đền thờ Đức Tiên Chúa, làm lễ tham yết mật nguyện âm phò mạc hựu rồi mới xuất quân. Khi ông Phan Văn Phái kéo quân đến mặt trận, lúc giao phong thì đột nhiên thấy ù ù sấm chớp gió cuốn cát bay nghe tiếng hò hét trên không trung rất là dữ dội. Ngài và quân lính lấy làm kinh hoàng, tuy vậy nhưng tự nghiệm biết đích rằng mình có cầu nguyện với Đức Tiên Chúa giúp sức nên truyền quân tấn công. Mới tấn công giây phút mà quả nhiên đã phá tan quân giặc. Bấy giờ ông Phan Văn Phái bảo với quân lính rằng, chúng ta không tài giỏi gì, đây là toàn nhờ Thần oai lực của Đức Tiên Chúa đánh tan quân giặc này. Lúc đó ông Phan Văn Phái với quân tướng đều cảm phục và vọng không bái tạ ơn Đức Tiên Chúa rồi kéo quân khải hoàn. Khi về đến kinh đô liền tâu chuyện mình vào đền Phố Cát cầu nguyện Đức Tiên Chúa với triều đình và kể rõ lại khi xuất trận và oai linh của Đức Tiên Chúa hiển hiện phá tan quân giặc thế nào, để triều đình nghe rõ.

Vua Lê Huyền Tôn nhớ tới công Đức Tiên Chúa “Hộ quốc binh nhung” liền hạ chiếu gia phong: “Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại Vương”. Và sắc phong cho ba tổng sở tại đó khỏi phải nộp sưu thuế đăng lính để phụng sự muôn thu. Từ đó về sau linh ứng dị thường, ai cầu gì được nấy, cho nên người đời cảm cái công đức to lớn mới gọi Đức Tiên Chúa là Thánh Mẫu.

Lúc bấy giờ đền Phố Cát là nơi anh linh hiển ứng, quan thân sĩ thứ và am nữ đính hương lễ bái liên lạc không ngớt. Vậy nên đền Phố Cát càng lâu càng huy hoàng tráng lệ. Đến hiện bây giờ lại càng tăng quảng miếu điện thêm, nhưng dấu tích tự triều Lê Thần Tôn sáng lập vẫn còn y cựu, sau phương dân chỉ trùng tu. Đền Phố Cát thuộc về huyện Thạch Thành ở Thanh Hóa ngang qua núi Triệu Tường đi lên. Ngôi đền ở giữa quả núi như hòn non bộ chung quanh, rừng rậm suối trong. Trước tòa đền có một cái suối sâu chảy bao quanh ở trước thông ra đền Rồng. Trước đền, ở dưới suối có thứ cá như là cá gáy (cá chép) miệng đỏ, đuôi như hoa sen, nhiều lắm, độ hơn vài ngàn con. Cá đó gọi là cá Thần, chầu trước đền, không đi đâu mà chẳng ai dám bắt. Một sự cá đó cũng làm linh dị. Trong lúc đó Đức Thánh Mẫu lại hiển tích ở núi Sòng Sơn cũng thuộc về Thanh Hóa rồi dân thôn lại lập lên ngôi đền nữa rất là tráng lệ đến bây giờ vẫn tăng huy hơn. Đền đó gọi là đền Sòng. Rồi kế đến đền Dâu và đền Rồng, Đức Thánh Mẫu giáng linh tại hai ngôi đền đó rất là hiển ứng đến hiện bây giờ linh lại càng linh.

Từ đó về sau, khôn nghi đại trứ viễn chấn linh thanh, nên cả xứ Bắc kỳ gia gia phụng tự, xứ xứ lập từ, nhân dân thờ tự Đức Thánh Mẫu rất là kính thành, đã cảm công đức Ngài mà lại kính thương Ngài như là con thương mẹ đẻ. Vì Ngài đã chí hiếu, lại chí trinh là một điều kính phục thật đáng làm gương quần lê, nên Đức Thánh Mẫu được thiên hạ tôn xưng là “Mẫu Nghi Thiên Hạ”, lại rất là từ bi cứu thế, giúp hộ lê dân. Ngài thương dân như con Ngài đẻ ra, vì thế thiên hạ đã khâm phục mà lại thương mến Ngài.

Ở tỉnh Nam Định, tại huyện Vụ Bản, làng Vân Cát, có ngôi đền thờ Đức Thánh Mẫu gọi là Phủ Vân Cát. Trong điện và đệ nhị đệ tam cung, ngoài hồ vọng nguyệt và có một cái đài cao rất là nguy nga. Đền này phụng tự rất là huy hoàng, phi liễn đối toàn những bậc danh thần khoa giáp để tiếng tán dương anh linh và công đức của Đức Thánh Mẫu. Ở chính điện có một bức hoành phi, treo ở chính giữa, đề bốn chữ đại tự “Tiên Nhân Cựu Quán”. Đó chính là cựu chỉ của Đức Thánh Mẫu, vườn hoa nhà cảnh khi xưa vẫn còn đó là lần giáng sinh thứ hai.

Lại có một tòa đền ở làng Tiên Hương gọi là Đền Phủ Dầy (Phủ Chính – Phủ Tiên Hương) cũng rất là nguy nga.

Lại có một tòa nhà thờ liệt vị tiên nhân Đức Thánh Mẫu gọi là đền Khởi Thánh có người cháu tự tôn làm trưởng họ để thừa tự các ngôi mộ tổ và liệt vị tiên nhân táng ở xứ La Hào.

Lại có một điện thờ Mẫu gọi là Nguyệt Du Cung. Trước đền cách độ ba trăm thước tây là tôn lăng Đức Thánh Mẫu (tại địa phận làng Tiên Hương).

Từ tôn lăng đến ga Gôi chừng hai cây rưỡi số, có ngôi chùa thờ Phật, và thờ Thánh Mẫu ở tại trên núi Gôi (Gôi Sơn) có danh tiếng ở đó. Thường năm đến kỳ hội Đức Thánh Mẫu là tháng ba, thì làng rước Thánh Mẫu ở đền Phủ Dầy lên chùa Gôi làm lễ rồi mới rước Đức Thánh Mẫu về đền hội xong mới hoàng tạ, vì thế chùa Gôi long trọng lắm. Tự núi Gôi đi lại làng Tiên Hương có một dãy núi dài như hình con rồng xanh nằm trước địa phận làng, làm tiền án. Xem qua địa thế sơn thủy hữu tình, thật là làng Tiên mà sinh ra Thánh, bây giờ làm Mẹ cho quần lê, biết mấy muôn đời. Đúng thật đó là Tiên Hương Vân Cát, chính là cố lý quê hương Đức Thánh Mẫu.

Thiên hạ y quang theo Đức Thánh Mẫu học đạo Ngài rất nhiều, ai ai cũng kính phục, nên ở đền Phủ Dầy có đôi liễn rằng:

Hữu tử thành Tiên hoàn bất tử

Vô sanh dưỡng tử tức như sinh.

Nghĩa là:

Có chết thành Tiên là không chết

Vô sinh gọi mẹ ấy là sinh.

Sau Đức Thánh Mẫu giáng bút phê hiệu Ngài là “Vân Hương Thánh Mẫu”. Vân là Vân Cát, Hương là Tiên Hương nên Đức Thánh Mẫu lấy hiệu Vân Hương, là bất vọng kỳ bổn, có khi gọi là “Tiên Hương Thánh Mẫu” lại có người gọi là “Thiên Tiên Thánh Mẫu”.

Bắc kỳ toàn hạt sùng bái uy nghiêm, còn các tỉnh phía bắc Trung kỳ như là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình, Quảng Trị cũng sùng bái như là xứ Bắc vậy. Từ năm Ất Sửu đến nay, Đức Thánh Mẫu hiển ứng vào đế kinh (Huế). Trong đó thiện nam tín nữ về đông theo đạo Mẫu nhất tâm cầu nguyện, khi đau ốm lúc tai nạn được nhờ hồng ân Đức Thánh Mẫu tai qua nạn khỏi, cho nên kinh thành Huế vào đến Nam kỳ đều lập đền thờ Đức Thánh Mẫu rất nhiều. Đức Thánh Mẫu thường khi giáng phê cho các kinh văn nhiều bộ, để khuyên dạy.

Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Phủ Quảng Cung

Phủ Quảng Cung (còn gọi là Phủ Nấp) nằm trên địa phận thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên là một vùng đất có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời của tỉnh Nam Định. Tương truyền Phủ Quảng Cung được xây dựng trên nền nhà sinh ra Thánh Mẫu ngay sau khi bà mất vào năm thứ tư niên hiệu Hồng Đức (1473) và được tu sửa nhiều lần vào các năm 1601, 1741 với quy mô nhỏ. Năm 1911, phủ được tôn tạo lại to hơn. Diện mạo của phủ hiện nay là từ lần trung tu năm 1994. Ngày 11/4/2013 Phủ Quảng Cung đã được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia”. Phủ Quảng Cung nằm trên một khu đất diện tích khoảng 4000m2, quay về hướng Đông. Phía trước phủ là một hồ nước rộng, ao trước phủ hình bán nguyệt và sân phủ. Cạnh hồ Bán Nguyệt là một tấm bia hình cuốn thư. Phủ Quảng Cung bao gồm các hạng mục công trình chính: Nghi môn, Sân phủ, Điện thờ và các công trình phụ trợ thường có trong các phủ, đền của Đạo Mẫu Tam Phủ.

Nghi môn phủ Quảng Cung tương tự như Nghi môn của nhiều phủ tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ, gồm 3 khối cổng. Khối cổng chính được giới hạn bởi hai trụ biểu chính với đỉnh trụ trang trí tứ phượng. Giữa hai trụ biểu chính là một cổng vòm, phía trên có mái che, dạng 4 mái. Hai bên khối cổng chính là khối cổng phụ, được giới hạn bởi trụ biểu nhỏ với đỉnh trụ trang trí con nghê chầu. Cổng phụ là một cổng vòm, phía trên có mái che, dạng 4 mái. Giữa khối cổng chính và khối cổng phụ là bức tường, đắp tượng Hộ pháp, phía trên có mái che. Các bức tường gắn với Nghi môn đều được đắp hình Tứ linh, Tứ quý.

Sân phủ nằm phía sau Nghi môn có nhiều hạng mục công trình. Hai bên có lầu Cô, Lậu Cậu. Tại bên trái của sân phủ có một ban thờ Mẫu ngoài trời, được đặt trên một bệ cao.

Ban thờ Mẫu ngoài trời, trong sân Phủ Quảng Cung, Ý Yên, Nam Định

Điện thờ của Phủ Quảng Cung gồm 3 công trình đặt song song với nhau: Tiền đường, Trung đường và Hậu đường. Tiền đường (Đệ Tam cung) gồm 7 gian, mái chồng diêm 2 tầng, 8 mái. Mặt trước của tòa Tiền đường có hàng hiên, theo dạng Nghi môn với các trụ, vòm cổng. Bên trong Tiền đường, chính giữa là ban thờ Tứ Phủ Công đồng; tả hữu hai bên là các vị Thần hàng Quan, hàng Chầu Bà.

Trung đường (Đệ Nhị cung) gồm 3 gian, đầu hồi bít đốc 2 mái. Gian chính thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, hai bên là Quan Nam Tào và Quan Bắc Đẩu đặt tại phía trên. Phía dưới là Tam Tòa Thánh Mẫu với bộ 3 tượng: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu  Thượng Ngàn và Mẫu Thoải Cung. 2 gian hai bên thờ đức Thánh Trần và Bà Chúa Bản Đền (hàng Thánh Cô).

Hậu cung (Đệ Nhất cung) gồm 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Gian chính thờ Tam Tòa Thánh Mẫu và Tứ Phủ Chầu Bà. Phía trên cùng là ban thờ Mẫu Phạm Thị Tiên Nga – Mẫu Liễu Hạnh với bức đại tự “Mẫu Nghi Thiên Hạ”. Bên trong ban thờ có tượng Mẫu Liễu Hạnh, tạc năm 1770 bằng đồng với tư thế ngồi thiền trên toà sen, thân chạm lưỡng long chầu nguyệt, mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê. Đây được cho là một trong những pho tượng đẹp nhất vùng đồng bằng sông Hồng. Hai gian hai bên Hậu cung là nơi thờ Thân phụ và Thân mẫu của Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

Bên cạnh Điện thờ là lầu Chúa Sơn Trang và Nhà tổ.

Hiện nay trong Phủ còn giữ lại được nhiều đồ tế tự tiêu biểu như: tượng Mẫu Phạm Thị Tiên Nga bằng đồng tạc năm 1770, với tư thế ngồi thiền trên tòa sen, bát hương bằng đồng, thân chạm lưỡng long chầu nguyệt mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê và khắc chữ Hán “Quảng Cung linh từ”; bát hương bằng đồng; 34 bản khắc gỗ có nội dung của 64 quẻ thẻ, một số hiện vật quý hiếm, một số bia đá, sắc phong, hoành phi, câu đối ghi dấu sự tích và ca ngợi công đức của Mẫu.

Hàng năm vào ngày 4 tháng 3 âm lịch diễn ra lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung (Phủ Nấp), nơi thờ đệ nhất giáng sinh thánh mẫu Liễu Hạnh. Vào ngày lễ hội, toàn cảnh Phủ Quảng Cung là một rừng người, rừng cờ, rừng hoa hòa quyện bao màu sắc, âm thanh thật linh thiêng nơi cửa Mẫu. Dòng người nối nhau với nhạc thanh đồng, kèn, trống, kiệu hoa, kiệu võng, long đao, bát bảo, kiệu Mẫu, kiệu Thần, múa rồng, sư tử… dài gần 2km rước Mẫu lên chùa Đồi.

Dòng người nô nức về quê Mẹ
Trống giục cờ hoa nối rợp trời
Thánh Mẫu nghiêng nghiêng lồng bóng kiệu
Muôn hồng ngàn tía ngát hương trời.

Tượng Mẫu Phạm Thị Tiên Nga bằng đồng tại Phủ Quảng Cung

Tại lễ hội Phủ Quảng Cung, dòng người rước Mẫu từ chùa Đồi về khu vực Mẫu Thoải bên dòng sông Đáy để tiến hành nghi lễ  “rước nước”. Hơn chục chiếc thuyền, phà chờ sẵn để đón kiệu Mẫu, kiệu Thần để thực hiện nghi lễ lấy nước và rước nước:

Gió lộng rồng bay rộn bến sông
Cao dầy lòng Mẫu chín tầng không
Thuyền thuyền lướt sóng say tình Mẹ
Nước phép đong đầy nghĩa mênh mông.

Nghi lễ rước nước diễn ra trang nghiêm, long trọng, và có ý nghĩa rất đặc biệt: Cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

Mưa thuận gió hòa lúa tốt tươi
Trĩu bông, sai quả ngọt dâng đời
Dân an, quốc thái niềm vui lớn
Di tích quốc gia mãi rạng ngời.

Nhân dân phấn khởi vui lễ hội, những nén nhang thơm lòng thành kính dâng lên Quốc Mẫu (Mẫu Nghi Thiên Hạ). Cuối buổi chiều ngày diễn ra lễ hội, đoàn rước Mẫu về Phủ Nấp đóng giá hồi cung.

Quần thể Phủ Dầy

Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Thánh Mẫu Liễu Hạnh có ba độ sinh hoá nhưng giai đoạn giáng sinh lần hai ở Phủ Dầy làm con gia đình họ Lê lấy tên Lê Thị Thắng, còn gọi là Giáng Tiên là anh linh hơn cả, có sự anh linh hiển hiện, kì dị bất thường, nổi trội hơn cả và cũng để lại nhiều huyền thoại, ấn tượng trong dân gian hơn cả. Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh nằm trên cánh đồng xóm 3 thôn Tiên Hương (xã Kim Thái – huyện Vụ Bản – tỉnh Nam Định) tương truyền đây là nơi chôn cất xác phàm của Mẫu sau lần giáng sinh thứ hai.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thân (1880) Khiếu Năng Tĩnh sau khi thi đỗ làm quan, ông đã để tâm tra cứu mảnh đất, con người quê hương Nam Định, phải mất mấy thập kỉ sau mới thành sự. Niên hiệu Duy Tân thứ 9 (1915), Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược mới được ra đời. Phần giới thiệu huyện Vụ Bản có ghi:

“Tại xã Tiên Hương có ngôi mộ cổ, bốn phía cây cối xanh tốt, không khí mát mẻ, cảnh sắc u tịch. Tương truyền là mộ Công Chúa Liễu Hạnh, có bia mộ nhỏ nhưng không có chữ. Nhân dân trong vùng, làng xóm các nơi mỗi khi có tật bệnh thường ra khu lăng mộ này hái lá, bẻ cành, hoặc đào rễ cây về sao sắc uống. Thường thì khi đến hái lá phải thắp hương trên mộ, khấn vái cầu xin sẽ khỏi bệnh. Nếu tự tiện hái lá, lại đem lời nhạo báng tất bị ốm đau. Nhưng nếu đem lễ vật ra mộ sám hối thì bệnh tất lại bình thường. Lễ vật chủ yếu là hương hoa, cốt tâm thành là được. Có một viên quan ra mộ nghịch ngợm, về nhà bị ốm lại sửa lễ rất to rồi khấn vái vẻ kiêu căng ngạo mạn, do đó bệnh không khỏi, mà cả vợ y cũng bị sốt cao, sau viên quan đó phải thân hành ra mộ làm lễ sám hối bệnh tình mới lui.”

Khu cổng dẫn vào lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Khu mộ này bằng đất, đến thời vua Minh Mệnh (1820­ – 1840) quan tri huyện Vụ Bản cho người xây gạch viền khu mộ lại và xây bệ bằng gạch cho mọi người đến đặt lễ cầu may, tại cổng có câu đối ghi:

“Hoa thảo sao chiên năng liệu bệnh
Kính thành tuỳ phục tức an khang”

(Lấy cỏ hoa sao sắc mà dùng khi đau ốm
Tâm thành cầu khấn lại khoẻ như xưa)

Lăng Mẫu Liễu Hạnh được xây dựng hoàn toàn bằng đá xanh, trên khu đất rộng hơn ngàn mét vuông ở cánh đồng xứ Cây Đa cách núi Tiên Hưong khoảng 1km và bên kia núi là mộ tổ họ Trần Lê. Khi lăng hoàn thành, Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã giáng bút, lời thơ giáng bút có bốn câu thơ chữ hán và 23 câu thơ lục bát, được Hội Xuân Kinh phổ hoá Đào chi đệ tử nam nữ phụng lập trên bia đá ngày tốt tháng Ba, niên hiệu Bảo Đại Mậu Dần (1938):

Vạn vật đo tòng tạo hoá công
Bạch đầu thương nhĩ phúc du đồng
Thông minh tự ngã hoàng thiên phú
Vô loan liễu tục dữ đào hồng.

(Muôn vật từ xưa tạo hoá xây
Trẻ già đều hưởng phúc vui đầy
Trời cho thông sáng lòng ta được
Liễu biếc đào hồng cảnh đẹp thay).

Dưới bốn câu thơ chữ hán, còn có bài thơ lục bát nói lên việc xây dựng lăng là do tình cảm tốt đẹp, hay nói khác là có duyên của mọi người, việc làm tốt đẹp này sẽ làm vui lòng Mẹ và Mẹ sẽ độ trì cho đàn con có cuộc sống yên vui hạnh phúc:

“Khen người mài sắt có công
Nên kim chẳng quản những công dùi mài
Có duyên mà cũng có tài
Năm trăm năm lẻ lâu dài là đây

Đội ơn trời đất cao dầy
Lập đền sửa mộ xưa nay mấy người?
Phen này mẹ cũng lòng vui
Vui non vui nước vui trời bao la
Tiên Hương Vụ Bản quê nhà Mẹ đây

Đời xưa cho đến đời nay
Lê Triều kim thượng gần rày sáu trăm
Đố ai tính được mấy năm
Sáu ngàn có lẻ vầng trăng vẫn tròn

Xuân kinh Phổ Hoá đàn con
Đàn con Phổ Hoá là con hữu tình
Hữu tình mẹ cũng thương tình
Đắp xây Lăng mộ chứng minh có Trời

Tiên Hương linh tích muôn đời
Trường xuân phúc quả thảnh thơi lâu dài
Có duyên ở cũng có tài
Thực là tình mẹ lâu dài nghĩa con
Khá khen một tấm lòng son”.

Tấm bia lưu giữ bài giáng bút được đặt trong nhà bia làm kiểu bốn mái cong cong, đỉnh mái là búp sen, bốn đầu kìm góc đao là chim phượng. Nhà bia làm rất công phu, lại hài hoà duyên dáng. Hệ thống cột vuông có đấu thượng và bệ được soi chỉ kép công phu. Đặc biệt là trên mặt hai cột chính diện được khắc nổi câu đối chữ Nôm, nổi lên thân thế ba lần sinh hoá, nêu tấm gương rất hiếu nghĩa, rất mực chung thuỷ với Mẫu.

Lăng xây theo kiểu hình vuông mỗi cạnh 24m, từ ngoài vào trong tạo năm lớp tường hoa theo cấp độ khác nhau, tường trong cao hơn tường ngoài, tuy chiều cao tường hoa đều 1m mà vẫn thấy rõ sự vươn dần lên phần mộ, và bốn mặt tường hoa đều có cửa lên mộ, mỗi cửa lại có một bình phong làm kiểu cuốn thư, đục chạm hoa lá cách điệu nghệ thuật. Mỗi cạnh tường hoa có hai trụ góc, hai trụ công do vậy mỗi vòng tường có 12 trụ, trên mặt đấu là 1 búp sen nên 5 vòng tường có 60 búp sen, đây là con số tròn trĩnh một hội (60) mà thuyết âm dương đã đề cập.

Hoạ tiết trang trí trên các tường hoa cũng không đơn giản, lớp ngoài tạo chấn song, lớp thứ hai tạo chữ “thọ”, lớp thứ ba tạo nổi chữ “vạn” và nền là kiểu trang trí “cẩn qui” (hình mai rùa) đều đặn. Lớp thứ tư chạm các vòng tròn lồng vào nhau và lớp trên cùng tạo hình ống hương bao quanh phần mộ. Các trụ cổng của 5 vòng tường hoa đều chạm chỉ, tạo đấu, chạm câu đối mà nét chữ thật tài hoa, gợi cảm. Hoạ tiết và chữ ở vòng tường hoa cũng toát lên ý nghĩa trường tồn và từ thiện.

Từ bốn cửa đông, tây, nam, bắc đều lên được phần mộ. Mộ tạo hình bát giác, mỗi cạnh dài 1m. Thân mộ trên có miệng loe ra, rồi vát lên thành mái, nhưng vẫn để lộ phần đất trống có đường kính 2.6m là đường thông âm dương. Mỗi cạnh ở phần mái vát lại được soi chỉ và tạo 21 bông hoa nhỏ và tất cả quanh mộ có 168 bông hoa nhỏ.

Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Đăc biệt các trụ cổng lên mộ đều khắc câu đối nội dung tán dương công đức Mẫu:

– Câu đối cửa phía Đông:

Từ ái nhất tâm nhân phụ mộ
Hiếu trinh thiên cổ nữ anh phong

(Lòng từ một lòng người kính mộ
Hiếu trinh ngàn thủa đẹp tiếng thơm)

– Câu đối cửa phía Tây:

Diệu pháp huy chương chương bác quận
Vân phàm phố tế tế Nam Phương

(Phép lạ sáng ngời, ngời đất Bắc
Mây lành che chở giúp dân Nam)

– Câu đối cửa phía Nam :

Bất tử sinh linh sơn hà tịnh thọ
Như sinh khí phách thiên địa trường tồn

(Không thể mất, sự tốt đẹp và anh linh còn mãi với non sông
Chết như sống, khí tiết hào hùng tồn tại lâu dài cùng trời đất)

– Một câu đối khác như sau :

Trắc dĩ nan đàn sơn thốn thảo
Ảm hà bội giác thuỷ chi nguyên

(Trèo lên núi Dĩ (núi Mẹ) khó đền tấc cỏ tươi xanh

Uống giọt nước sông càng nghĩ về nguồn nước chảy)

Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Lăng Mẫu gần đây cũng được tu sửa lại thêm khang trang và hoành tráng. Theo nhiều tài liệu cũ thì trước kia khu lăng mộ Thánh Mẫu không có nhà cho thủ từ ở, tuy nhiên để việc trông coi được thuận tiện, cũng như việc tiếp đón du khách được trang trọng, về sau xây dựng thêm khu ở của thủ từ và bao quanh khu lăng mộ bằng hàng rào sắt. Bên cạnh khu lăng mộ còn có một gian nhà trong đó điện thờ được bài trí với ban thờ Mẫu nằm chính giữa, từ ngoài bước vào thì bên phải ngay cạnh ban thờ Mẫu là ban thờ Bà Cai Bản Mệnh, tiếp là ban thờ đức Thánh Trần. Bên trái của ban thờ Mẫu là ban thờ Quan Lớn Đệ Nhất và ban thờ Nhị Vị Cô Nương.

Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh hiện nay đã trở thành một di tích không thể thiếu được khi mỗi khách hành hương về với lễ hội Phủ Dầy và ngày càng nhiều các du khách về thăm quan dâng hương lên mộ phần bày tỏ tấm lòng thành kính đối với Mẫu.

Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Phủ Chính Tiên Hương

Phủ Chính Tiên Hương hay còn gọi là Phủ Tiên Hương nằm ở xóm 1 thôn Tiên Hương xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Phủ Tiên Hương được xây dựng từ thời Hậu Lê (1642)  trải qua bao thăng trầm lịch sử của thời gian, cho đến nay Phủ vẫn gìn giữ được nét cổ kính thời xưa.

Hình ảnh tượng thờ

RELATED ARTICLES

Bài viết phổ biến