Chầu Đệ Tứ Khâm Sai (Địa phủ) – Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa – Màu sắc đại diện: màu vàng.
Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa – Mai Hoa Công Chúa; Nguồn gốc: Mai Hoa Công Chúa chốn Thiên Cung; Phủ/ nơi cai quản: Địa Phủ; Hầu cận: Mẫu Liễu Hạnh; Lĩnh vực chính: Khâm sai toàn cõi bốn phủ, Giữ sổ Tứ Phủ, coi kho ngân xuyến, Ra uy sát quỷ trừ tà, Chiêu tài tiếp lộc gần xa cho đồng, Quyền cai bản mệnh gia trung; Trang phục: Màu sắc Vàng

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai là vị thánh chầu trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà, Chầu rất gần gũi và hầu cận kề bên cạnh Đức Thánh Mẫu thần chủ, cho đến nay tại thôn Tiên Hương (làng An Thái cũ) quê hương của chầu vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện, sự tích về sự anh linh hiển hách của chầu.
“Quê hương An Thái xã danh
Có Chầu Đệ Tứ hách danh phàm trần
Ra uy sát quỷ trừ tà
Chiêu tài tiếp lộc gần xa cho đồng
Khâm sai đệ tứ tuỳ tòng
Chiêu Dung công chúa ngự đồng cứu dân”
Thần tích Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Chầu Đệ Tứ Khâm Sai hay còn gọi là Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai quyền cai tứ phủ là vị thánh chầu trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ của người Việt. Chầu vốn là Bồng Lai Tiên Nữ trên thiên cung, giáng sinh xuống đất An Thái trấn Sơn Nam, nay là thôn Tiên Hương xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, hầu cận kề bên Thánh Mẫu thần chủ.
Gặp buổi giặc giã hoành hành, Chầu Đệ Tứ xông pha ra trận trở thành vị nữ tướng, vốn tính khảng khái chính trực, nếu có kẻ nào làm sai phép quân lệnh là “tiền trảm hậu tấu”, lập nhiều công lao giúp vua dẹp giặc và trấn giữ ở miền Hà Trung, Thanh Hóa nên được sắc phong là Chiêu Dung Công Chúa. Sau khi trở lại Thiên đình, chầu lại được Thánh Mẫu giao quyền khâm sai Tứ Phủ (từ Thủy Phủ cho tới Thiên phủ), biên chép sổ Thiên Đình, quyền cai bản mệnh các thanh đồng (là nhưng người thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu), trực tiếp giữ sổ Tứ Phủ, coi kho ngân xuyến. Lúc thanh nhàn, chầu truyền các nàng tiên vân du, dạo cảnh khắp chốn, từ miền quê ra tới kinh kỳ.
Đình Cốc Thượng là nơi tôn thờ Chiêu Dung Công Chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có công với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân xâm lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (năm 40). Sự tích về người nữ anh hùng này được Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính ghi chép lại trong cuốn “Di tích và đền miếu nữ danh nhân Việt Nam”
Theo tài liệu thì tại xã Thiên Lộc, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang xưa (nay là xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội) có ông tù trưởng tên là Đặng Công Thành kết duyên cùng bà Lý Thị Ngọc. Ông bà vốn là người tu nhân tích đức, luôn làm việc phúc cho nhân dân trong vùng. Ông bà sinh được 5 người con trai. Sau khi chồng mất, bà ở vậy một mình nuôi dạy các con trưởng thành. Sống trong chế độ tàn bạo của quân nhà Hán, bà sớm nuôi ý chí yêu nước và truyền dạy tấm lòng yêu nước cho các con. Khi các con đã khôn lớn, mẹ con bà đã vận động nhân dân trong vùng xây dựng đồn binh, ngày đêm luyện tập quân sỹ, tích luỹ quân lương. Khi nghe tin Thái thú Tô Định đem quân về đàn áp bà đã cùng các con lãnh đạo quân sỹ chiến đấu tiêu diệt hàng trăm quân giặc. Do không cân sức mẹ con bà đã phải lui quân về chùa Hương, khôi phục lại lực lượng.
Nghe tin Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa, bà cùng các con cất quân về tụ nghĩa. Thấy mẹ con bà có khí phách phi thường thì Hai Bà Trưng mừng lắm và phong cho bà là Lý Thị Ngọc Ba – ý muốn tôn sùng lãnh tụ khởi nghĩa đứng đầu là Trưng Trắc, sau là Trưng Nhị và thứ ba là Lý Thị Ngọc Ba.
Sau khi tế cờ ở Hát Môn, Hai Bà Trưng xung trận, các đạo quân đều tả xung hữu đột, chống trận vang trời, quân Tô Định bị bại trận, nghĩa quân Hai bà thu phục được 65 thành.
Trưng Trắc xưng vua, Trưng Nhị được phong là Bình Khôi Công chúa và bà Lý Thị Ngọc Ba được phong là Chiêu Dung Công Chúa. Sau chiến thắng, bà được Hai Bà Trưng thưởng tiền và phong cho vùng đất Kim Cốc làm đất thang mộc.
Từ đó, bà cùng các con tổ chức cho nhân dân trong vùng làm ăn xây dựng quê hương. Tương truyền, vào một hôm (ngày 6 tháng chạp) trời đất bỗng mây mù kéo đến, gió cuộn lên cả một vùng sông Đáy, người ta thấy mẹ con bà xuống thuyền. Khi sóng yên, gió lặng chờ mãi không thấy mẹ con bà trở về, biết mẹ con bà đã hoá, Hai Bà Trưng vô cùng cảm kích nên lệnh cho dân trong vùng lập miếu, xây đình để thờ phụng mẹ con bà.
Kể từ đó, để tưởng nhớ đến công lao của bà và các con nhân dân trong vùng lấy ngày mùng 6 tháng chạp hàng năm là ngày giỗ cùng là ngày hội của dân làng Kim Cốc. Dưới thời Lê Trung Hưng, vua đã từng cử đại thần về đây làm lễ dâng hương để tưởng nhớ công lao của bà và các con. Công lao của bà như vậy nên bà đã được đưa vào hệ thống thánh Chầu trong Tứ phủ.
Đền thờ Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Đền thờ Chầu Đệ Tứ cũng được lập ở nhiều nơi nhưng Phủ Dầy là nơi chính cung thờ Chầu, hiện nay có 2 ngôi đền thờ Chầu Đệ Tứ tại Phủ Dầy:
Một đền thờ Chầu Đệ Tứ thuộc xóm 1 thôn Tiên Hương đây là quê nội của Chầu ngay đằng sau Phủ Chính.

Một đền thờ Chầu Đệ Tứ thuộc xóm 2 thôn Tiên Hương đây là quê ngoại của Chầu, ngay mặt đường 56 cách Phủ Chính chừng 1 km.

Ngoài ra còn Đền Cây Thị, Đền Chầu Đệ Tứ thuộc huyện Hà Trung, Thanh Hóa tương truyền là nơi chầu ra trận dẹp giặc và ngoài ra ở Hà Nội còn có Đền Duyên Trường – Đền Chầu.
Đình Cốc Thượng, xã Hoàng Diệu (Chương Mỹ, Hà Nội) tọa lạc trên thửa đất có hình thế đẹp giữa làng, mặt trước nhìn ra trục đê ven bờ sông Đáy hiền hòa, thơ mộng. Theo cuốn thần phả hiện còn lưu giữ tại Đình, do Hàn lâm Đông các Đại học sỹ Nguyễn Bính phụng soạn năm Hồng Phúc Nguyên niên (1572) và Quản giám Bách thần chi điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng soạn năm Vĩnh Hựu lục niên (1740), cho thấy: Đình Cốc Thượng là nơi tôn thờ Chiêu Dung công chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có công với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân xâm lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (năm 40), làm Thành Hoàng.

Ngày khánh tiệc chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Chính tiệc của Chầu Đệ Tứ Khâm Sai là vào ngày 14/03 âm lịch.
Hầu giá Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Chầu Đệ Tứ khi về ngự đồng vào dịp khai đàn mở phủ trong trang phục áo màu vàng, cầm quạt khai cuông rồi thường múa kiếm hoặc khai cờ lệnh, cũng có nơi hầu Chầu về múa quạt, múa mồi hoặc chỉ khai cuông rồi an tọa tùy tập tục từng nơi.
Bản văn Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Đấng Nam thiên nữ trang Nghiêu Thuấn
Đất Sơn Nam có đấng trâm anh
Quê hương An Thái xã danh
Có Chầu Đệ Tứ hách danh còn truyền
Điều thời phụng sắc Hoàng thiên
Ngự đồng ánh bóng khắp miền gần xa
Ra uy sát quỷ trừ tà
Chiêu tài tiếp lộc gần xa cho đồng
Khâm sai tứ phủ tuỳ tòng
Chiêu Dung công chú ngự đồng cứu dân
Trong nghĩa thân ngoài thời nghĩa dưỡng
Nương uy trời độ lượng bao dung
Mặt hoa tươi tốt má hồng
Gồm lo tứ đức tam tòng vẻ vang
Mày ngài tóc phượng vấn vương
Lưng ong má phấn xem càng tốt tươi
Miệng chầu cười trăm hoa đua nở
Đáng lên tài tiên nữ bống lai
Vào tâu ra rộng khoan thai
Đã trong hiển ứng lại ngoài tối linh
Chốn thiên đình ca ngâm chầu chực
Các bộ nàng tiên nữ dâng hoa
Chầu thôi lại trở ra về
Khi ra Thiên Bản lúc về Đồi Ngang
Miếu giữa đường gia ban sắc chỉ
Bốn chữ vàng chính khí nghiêm trang
Lân vờn phượng múa nhà vàng
Thị tòng bộ chúng các nàng đôi bên
Có phen lên thanh sơn tú thuỷ
Hoá phép mầu lục trí thần thông
Quản cai tam phủ công đồng
Quyền chầu coi sóc đền rồng vào ra
Sổ tam toà chép biên sau truớc
Lại sửa sang gương lược trầu cau
Dù ai tiếp cũng khẩn cầu
Quyền chầu ra rộng vào tâu thông hành
Lên thiên đình ngự về thuỷ phủ
Tiến văn chầu kích cổ tam không
Mời chầu trắc giáng điện trung
Hay còn nam bắc tây đông chốn nào
Trên thiên tào còn đang tra sổ
Hay chầu còn đổi số cho ai
Có phen chơi cảnh bồng lai
Hay về An Thái là nơi quê nhà
Có phen ra kinh đô thành thị
Vào kính thiên toạ vị hồng lâu
Rong chơi năm cửa nhà lầu
Hay chơi Phố Mới, cầu Châu, cầu Rền
Lên trên đến Cầu Đông, cầu Giác
Trở ra về Hàng Bạc, Hàng Ngang
Hàng Buồm chầu lại dạo sang
Mã Mây, Phố Mới, Hàng Đường, Đồng Xuân
Dạo chơi khắp hết xa gần
Hàng Đồng, Hàng Thiếc, Hàng Cân, Hàng Đào
Chợ huyện, Chùa Tháp, Đình Ngang
Cấm chỉ, đền Cờn, các vạn dưới sông
Có phen Chầu ngự thuyền rồng
Qua hồ Trúc Bạch lại dong Tây Hồ
Lệnh truyền tiên nữ chèo đua
Qua đền Trấn Võ lên chùa Huyền Thiên
Vực Kim Ngưu có đền An Thái
Cảnh hội đồng có dải Tô giang
Thiên Tích Chầu lại dạo sang
Sai các tiên nàng chầu chực dâng hoa
Phút thôi Chầu chở ra về
Ngự trong bản điện sớm khuya hội đồng
Có phen Chầu ngự đường trong
Dạo khắp phủ tía lầu hồng vào ra
Có phen chơi Đồi Ngang, Phố Cát
Đứng nhởn nhơ bóng mát cây cao
Nghệ An Chầu lại từng vào
Dạo chơi các chốn lầu cao Kinh Thành
Có phen Chầu chực tỉnh Thanh
Sòng Sơn Ba Dội tập tành vui chơi
Thường vãng lai bán hàng chiều khách
Thấy ai là ngang ngược ra tay
Mặc ai phù phép tìm thầy
Thành tâm lễ bái Chầu dày lại tha
Lòng kính chúc hương hoa tịnh thuỷ
Hoá phép màu lục trí thần thông
Kiêm tri tam phủ công đồng
Tốc lai giáng hạ từ trung thay là.