Thứ Ba, Tháng 3 4, 2025
Trang chủNhân vậtPhùng Hưng – Bố Cái Đại Vương

Phùng Hưng – Bố Cái Đại Vương

Thông tin cơ bản

Thân thế

Phùng Hưng (? – ?), nổi tiếng với tôn hiệu Bố Cái Đại Vương, là thủ lĩnh khởi nghĩa chống lại ách đô hộ An Nam của nhà Đường thời Bắc thuộc lần thứ ba (602 – 905) trong lịch sử Việt Nam. Ông sinh ra ở làng Đường Lâm (nay là  thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội).

Theo thần tích của những làng thờ Bố Cái Đại Vương làm thần hoàng, như làng Triều Khúc thì Phùng Hưng có lẽ sinh vào ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý (760), lên ngôi ngày 10 tháng 1 năm Tân Vị (791), mất ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (802).

Sách Việt Điện u linh tập của Lý Tế Xuyên cho biết: “Xét Giao Châu Ký[1] của Triệu Vương chép rằng: Vương họ Phùng tên Hưng, thế tập Biên Khố Di Tù Trưởng châu Đường Lâm, hiệu là Quan Lang (man tục nay còn). Vương gia tư hào hữu, sức lực dũng mãnh, đánh được hổ, vật được trâu; người em tên là Hãi cũng có sức mạnh kỳ dị, vác được một tảng đá nặng mười nghìn cân, hay một chiếc thuyền con chở nghìn hộc mà đi hơn mười dặm; mọi lào thấy vậy đều kinh hãi.”[2]

Nguồn gốc tôn hiệu

Tôn hiệu phổ biến của Phùng Hưng, Bố Cái Đại Vương , được coi là một trong những trường hợp sử dụng chữ Nôm bản địa cổ nhất hiện còn lưu truyền. Việt điện u linh tập (1329) giải nghĩa: “Bố Cái Đại Vương, bởi quốc tục xưng cha là “Bố”, mẹ là “Cái” nên mới gọi như vậy.”[3] Các bộ chính sử về sau như Đại Việt sử ký toàn thư (1697) đời Hậu Lê và Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (1859) đời Nguyễn đều dẫn cổ sử mà khẳng định tương tự. Trong Việt Nam cổ văn học sử (1942), Nguyễn Đổng Chi nhận thấy sự tương đồng giữa danh hiệu trên và những từ chỉ đấng sinh thành trong tiếng Mường Lào như bọ “bố” và cày “mẹ”.

Tuy nhiên, tồn tại một luồng ý kiến trái chiều tới từ một số nhà ngôn ngữ học. Tiểu biểu là A.G. Haudricourt và Mei Tsu-Lin cho rằng hai chữ kia đáng ra phải được hiểu là “bua/vua lớn” dựa trên bằng chứng ngữ âm tiếng Hán trung cổ và rằng cách đọc “bố cái” rõ ràng lệch thời. Nhận xét về giả thuyết của Haudricourt, sử gia Keith W. Taylor trong công trình The Birth of Vietnam (1983) cho rằng đề xuất đó tuy “khá hợp lý và thú vị”, song cũng phải chú ý rằng Việt điện u linh tập, vốn được soạn gần thời gian xảy ra sự kiện hơn, minh giải danh hiệu kia là “bố mẹ”. Dù vậy, trong một bài đăng sau đó trên tạp chí The Vietnam Forum (1986), Taylor rút lại nhận định của mình và cho rằng suy đoán của Haudricourt khá thuyết phục.

Năm 1994, Nguyễn Tài Cẩn phản bác giả thuyết “bua/vua cái” trong một bài báo ngôn ngữ học viết bằng tiếng Nga, đọc trước hội thảo khoa học tại Sankt-Peterburg. Theo đó, hai luận điểm chính mà ông đưa ra là: (1) lý giải chữ “cái” ở đây là “lớn” không thích hợp về mặt ngữ nghĩa, bởi vì từ này thường được dùng cho các sự vật có tính đối lập nghĩa “lớn – nhỏ” hoặc “mẹ – con”; và (2) “bố mẹ” hoàn toàn có thể mang nghĩa “thủ lĩnh, lãnh đạo” mà không cần phải lập luận dựa trên sự thay đổi cách đọc chữ 布, sở dĩ vì hiện tượng lấy danh từ chỉ người bề trên để nói bóng về thủ lĩnh xuất hiện khá phổ biến trong các ngôn ngữ ở Đông Dương.

Những đóng góp

Vào những năm thuộc niên hiệu Đại Lịch (766-779) của triều đại nhà Đường,  Cao Chính Bình, nguyên chân quan võ – Đô úy – châu Vũ Định (ở Tây Bắc), vì có công đánh lui các toán giặc cướp từ ngoài biển kéo vào, nên được vinh thăng làm chức đứng đầu cả Phủ đô hộ, đóng Dinh trong tòa “An Nam La thành”, bên bờ sông Tô Lịch. Cao Chính Bình đề ra nhiều chính sách bóc lột cực kỳ hà khắc của mình, khiến người Việt ở khắp nơi đều hết sức phẫn nộ.

Ngọn lửa căm thù kẻ thống trị phương Bắc vốn vẫn âm ỉ nay lại bùng lên dữ dội. Ngọn cờ nghĩa giương cao trên miền đất đồi Đường Lâm, do chính Phùng Hưng khởi xướng.

Việt Điện u linh chép: “Giữa niên hiệu Đại Lịch 57 nhà Đường, nhân nước An Nam ta có quân loạn, anh em đem nhau đi tuần các ấp lân cận đều hạ được cả, đi đến đâu thì chỗ ấy tan tác.

Đắc chí rồi, Hưng cải danh là Cự Lão, Hãi cũng đổi tên là Cự Lực; Vương hiệu là Đô Quán, Hãi hiệu là Đô Bảo, dùng kế hoạch của người Đường Lâm là Đỗ Anh Hậu đem binh tuần hành mấy châu Đường Lâm, Trường Phong, thảy đều quy thuận cả; uy danh chấn động, dương ngôn muốn đánh lấy Đô Hộ Phủ.

Lúc bấy giờ quan Đô Hộ là Cao Chính Bình đem binh dưới trướng ra đánh không hơn được, ưu phẫn phát bệnh vàng da mà chết. Vương vào Đô Phủ thị sự bảy năm rồi mất; dân chúng muốn lập em là Hãi lên nối ngôi. Có kẻ phụ tá đầu mục là Bồ Phá Lặc, sức có thể bài sơn cử đỉnh, dũng lực tuyệt luân, có ý không theo mới lập con Vương là An, rồi đem quân chống Hãi; Hãi tránh Bồ Phá Lặc, dời qua ở động Chu Nham, sau đấy không biết ra sao nữa… An lên kế vị được hai năm, vua Đức Tông phong Triệu Xương sang làm An Nam đô hộ; Xương sang đến nơi, trước hết sai Sứ đem nghi vật dụ An; An sửa sang nghi vệ, đem quân nghênh hàng Triệu Xương, các thân thuộc họ Phùng giải tán hết.”[4]

Không chỉ vậy, khi đã khuất núi, Bố Cái Đại Vương vẫn hiển linh trợ giúp hậu thế trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc: “Vương vừa mới mất đã hiển linh, thường ở trong thôn dân hiện hình thành thiên xa vạn mã phi đằng trên gia ốc, trên cổ thụ; chúng nhân trông lên thực như đám mây ngũ sắc, lại nghe thấy ti trúc, quản huyền giao hưởng trên không trung, tiếng hô hoán, tiếng cờ trống võng kiệu vọng lên nghe thấy phân minh giữa ban ngày. Phàm trong ấp có tai nạn hoặc việc vui mừng thì Ấp trưởng trong đêm đã thấy có dị nhân báo cáo trước; chúng phục là thần, lập đền phía tây Đô phủ mà phụng sự, phàm có việc trộm cướp, việc hồ nghi thì đại thể tề tựu trước đền mà bái yết thần, vào trong đền mà minh thệ, lập tức thấy họa phúc. Nhà thương mại đem lễ đến đền cầu lợi hậu đều có linh ứng; thôn dân gặp phải mưa dầm hay đại hạn; cầu đảo liền được như ý. Mỗi năm xã đến ngày tạ lễ, người đến đông như rừng như biển, bánh xe dấu ngựa đầy đường; miếu mạo nguy nga, hương đèn chẳng dứt.

Thời Ngô Tiên chúa kiến quốc, Bắc binh nhập khấu, Tiên chúa đã lo, nửa đêm hốt nhiên mộng thấy một ông già đầu bạc, y quan nghiêm nhã, tay cầm quạt lông, chống gậy trúc, tự xưng tính danh rằng:

– Ta lãnh thần binh vạn đội, sẵn sàng mai phục các chỗ yếu hại, chúa công tức tốc tiến binh chống cự, đã có âm trợ, chớ lo phiền chi cả.

Đến khi tiến binh trên Bạch Đằng, quả thấy trên không có tiếng xe ngựa, trận ấy quả được đại tiệp; tiên chúa lấy làm lạ, chiếu kiến lập miếu điện, trang nghiêm có từng hơn xưa, lại sắm thêm quạt lông, cờ hoàng đạo, chiên đồng, trống đại, rồi làm lễ thái lao, con hát đến làm lễ tạ; lịch triều theo đó dần dần thành ra cổ lễ.

Hoàng triều niên hiệu Trùng hưng năm đầu, sắc phong Phu Hựu Đại Vương. Năm thứ bốn mươi, gia thêm hai chữ Chương Tín, Năm Hưng Long thứ hai mươi, gia phong hai chữ Sùng Nghĩa, đến bây giờ anh uy càng thịnh, hương lửa không ngớt vậy.”[5]

Chú thích

[1] Giao Châu Ký: đó là tác phẩm của Triệu Xương – người đã cai trị hai lần ở Giao Châu và đã trở thành như một nhà chuyên môn về các vấn đề Giao Châu, bởi vậy, khó lòng có thể có một người nào hiểu biết về Bố Cái Đại Vương hơn ông.

[2] Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập, Lê Hữu Mục dịch, ebook, tr. 27.

[3] Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập, Sđd,  tr. 27.

[4] Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập, Sđd, tr. 27.

[5] Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập, Sđd, tr. 28.

Tham khảo

  1. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên,… (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), Nxb Khoa học xã hội.
  2. Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập, Lê Hữu Mục dịch, ebook, tr. 27.
RELATED ARTICLES

Bài viết phổ biến